Ở nước ta, từ lâu, Đảng, Nhà nước đã quan tâm và đánh giá cao lợi ích, tầm quan trọng của CNLD trong quân sự nói chung và bảo đảm hậu cần, kỹ thuật nói riêng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cùng với việc bảo đảm cung cấp vũ khí trang bị kỹ thuật phục vụ các đơn vị chiến đấu trên chiến trường, các cơ sở sản xuất quốc phòng của ta đã thực hiện kết hợp sản xuất, chế tạo các trang thiết bị quân sự, sản phẩm tiêu dùng phục vụ đời sống của bộ đội và nhân dân. Truyền thống này đã được tiếp tục kế thừa, phát huy và đạt được nhiều thành tựu to lớn hơn khi Đảng, Nhà nước có những chủ trương, đường lối cụ thể về kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Ảnh minh họa / tapchicongsan.org.vn

Trong thời gian tới, nước ta đứng trước nhiều vận hội, thời cơ mới, song cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật được kế thừa truyền thống với những bài học kinh nghiệm đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu, yêu cầu của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX và khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”, chúng ta cần chú trọng hơn nữa tới việc triển khai thực hiện tốt quan điểm kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng trong công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật.

Trong bối cảnh mới, việc mở rộng ứng dụng CNLD trong bảo đảm hậu cần, kỹ thuật càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Việc tiếp cận, làm chủ thiết kế, công nghệ chế tạo vũ khí trang bị công nghệ cao đòi hỏi sự chuyên môn hóa sâu rộng hơn, cả ở trong nước và nước ngoài. Phải tạo ra được những chuyển dịch cơ bản về cơ cấu tiềm lực công nghệ quân sự theo hướng tăng dần tỷ trọng CNLD. Đây được coi là một trong những hướng ưu tiên trong quá trình “nội địa hóa” năng lực sản xuất vũ khí trang bị khi tiếp nhận, chuyển giao công nghệ của nước ngoài.

Cần huy động tiềm lực khoa học công nghệ và công nghiệp quốc gia vào việc phát triển các công nghệ cốt lõi cũng như các công nghệ phụ trợ phục vụ công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật. Điều này cho phép chúng ta chủ động hơn trong việc lồng ghép các tiêu chí lưỡng dụng trong quá trình nghiên cứu, phát triển và áp dụng các công nghệ mới.

Để phát triển CNLD trong bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trước hết tập trung đầu tư cho nghiên cứu, phát triển công nghệ và các sản phẩm lưỡng dụng phục vụ công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật. Việc đầu tư phát triển CNLD cần được thực hiện theo lộ trình hướng tới sự chuyển dịch tối ưu cơ cấu công nghệ, bảo đảm cân đối, đồng bộ giữa công nghệ chuyên dụng và CNLD, giữa “công nghệ lõi”, “công nghệ nền” và “công nghệ phụ trợ”. Việc đầu tư cho nghiên cứu, phát triển CNLD phải bảo đảm cho sự phát triển dài hạn thông qua sự kết nối chặt chẽ giữa doanh nghiệp với các cơ quan nghiên cứu.

Quy hoạch và định hướng lâu dài các sản phẩm lưỡng dụng phục vụ công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật. Điều này đòi hỏi phải có tầm nhìn và quyết tâm lồng ghép các lợi ích lưỡng dụng vào trong từng dự án đầu tư, từng chương trình, kế hoạch; đồng thời kiện toàn đồng bộ các chính sách, giải pháp về mô hình tổ chức quản lý, văn bản pháp quy, chế độ ưu tiên đãi ngộ, cơ chế cạnh tranh, khuyến khích nguồn lực đầu tư ở cả trong và ngoài nước...

Phát triển nguồn nhân lực hậu cần, kỹ thuật theo hướng lưỡng dụng. Công tác đào tạo nhân lực hậu cần, kỹ thuật phải luôn gắn với các tiêu chí lưỡng dụng. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ hậu cần, kỹ thuật, ngoài các tiêu chí chung về bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, chuyên môn quân sự, còn phải am hiểu về pháp luật, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế-xã hội... Cán bộ hậu cần, kỹ thuật cũng cần được đào tạo bổ sung, trang bị kiến thức thực tiễn về cạnh tranh thị trường, luật pháp quốc tế về vũ khí, công nghệ quân sự, các lĩnh vực CNLD, kỹ năng làm việc với các đối tác nước ngoài...

Kiện toàn cơ chế quản lý và mô hình tổ chức bảo đảm hậu cần, kỹ thuật theo hướng lưỡng dụng. Quá trình hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật cần chú ý tới yêu cầu tháo gỡ khó khăn để khuyến khích và thu hút các nguồn lực đầu tư cho phát triển CNLD. Trong đó từng bước cụ thể hóa việc áp dụng các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ, thị trường khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ, bảo vệ bí mật Nhà nước, cạnh tranh, đấu thầu...

Thu hút các nguồn lực CNLD ở trong nước và nước ngoài, trong đó tập trung nhiều hơn vào những lĩnh vực công nghệ cốt lõi, có tính dẫn hướng tiên phong trong thiết kế, chế tạo vũ khí trang bị mới; mở rộng việc áp dụng CNLD và công nghệ phụ trợ cho sản xuất hàng quân sự với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác. Trong hợp tác quốc tế, cần đẩy mạnh xây dựng lòng tin, củng cố quan hệ với các đối tác chiến lược, đối tác truyền thống, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho việc mở rộng khả năng tiếp cận CNLD trong bảo đảm hậu cần, kỹ thuật.

VŨ HỒNG KHANH