Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, quan hệ quốc phòng song phương giữa Việt Nam với các nước góp phần củng cố tình đoàn kết hữu nghị, hợp tác vì sự phát triển và môi trường hòa bình trên thế giới cũng như khu vực. Hình thức quan hệ được triển khai phong phú, đa dạng, thiết thực, có chiều sâu, như: Đối thoại quốc phòng; giao lưu biên giới; giao lưu sĩ quan trẻ; phối hợp tuần tra biên giới trên bộ và trên biển; huấn luyện, đào tạo, khoa học và công nghệ, trao đổi kinh nghiệm...

Quan hệ quốc phòng đa phương giữa Việt Nam với các nước cũng đạt nhiều kết quả quan trọng. Việt Nam đã chủ động tham gia các hội nghị quốc phòng đa phương trong khuôn khổ ASEAN, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và các diễn đàn đối thoại quốc phòng, an ninh. Quan hệ quốc phòng đa phương giữa Việt Nam với các nước đã được thể chế hóa thông qua một số cơ chế hợp tác và tham gia với nhiều hình thức, nhiều cấp độ. Các hoạt động đa phương góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đất nước, quân đội, tạo sự ủng hộ mạnh mẽ của các nước, góp phần giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia-dân tộc, vì hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế giới. Các hoạt động đa phương phổ cập cũng được quan tâm thúc đẩy, như: Tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc; mở rộng hoạt động hợp tác đa phương về hiệp ước giải trừ quân bị...

Những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tác động trực tiếp đến tiến trình HNQT của Việt Nam nói chung và HNQT, ĐNQP nói riêng. Trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập sâu hơn, toàn diện hơn vào khu vực và thế giới với nhiều thuận lợi, song cũng không ít khó khăn, thách thức, HNQT và ĐNQP cần quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng, thể hiện tinh thần tích cực, dám nghĩ, dám làm; giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ; góp phần ngăn ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh, giảm các thách thức an ninh phi truyền thống; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quốc gia-dân tộc; bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng và chế độ XHCN. Thúc đẩy mở rộng quan hệ quốc phòng với các nước, các định chế, tổ chức quốc tế, đưa quan hệ đã xác lập đi vào thực chất, chiều sâu, hiệu quả; gia tăng mức độ đan xen, gắn kết lợi ích chiến lược; nâng cao vị thế quốc tế của đất nước và lực lượng vũ trang, khai thác có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để tăng cường thế và lực của nền quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. HNQT và ĐNQP phải tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước; bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới.

HNQT và ĐNQP phải vừa bám sát các quan điểm, đường lối của Đảng, vừa tuân thủ các nguyên tắc trong quan hệ quốc tế và hoạt động ngoại giao. Kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa nhằm phục vụ cho mục tiêu cao nhất là bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc, củng cố môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của đất nước ở khu vực và trên thế giới; đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. HNQT và ĐNQP phải thể hiện được quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là đẩy lùi và ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường hòa bình ổn định cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

HNQT và ĐNQP phải luôn giữ vững nguyên tắc nh­ưng phải rất sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của đất nước, quân đội, cũng như­ diễn biến của tình hình thế giới, khu vực và trong nước. Cần quán triệt tư tưởng “dĩ bất biến ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hợp tác quốc tế, vận dụng sáng tạo các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 806-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về "Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo''. Cần linh hoạt trong việc xác định nội dung, hình thức, biện pháp hợp tác phù hợp từng đối tác và trong những điều kiện cụ thể.

HNQT và ĐNQP phải bảo đảm kết hợp chặt chẽ giữa tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại với cải thiện, nâng cao hiệu quả hợp tác cả về bề rộng và chiều sâu; phát huy truyền thống yêu hòa bình, tinh thần độc lập, tự chủ, tự tôn dân tộc, kế thừa và phát triển t­ư tưởng, phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, làm cho bạn bè, đối tác đồng cảm, tôn trọng và tin tưởng nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Củng cố niềm tin, tăng cường sự hiểu biết, phát triển quan hệ bạn bè, hữu nghị bền chặt, trên tinh thần bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đặc biệt, HNQT và ĐNQP phải bảo đảm tính hiệu quả thiết thực, thể hiện qua việc sử dụng hợp lý các nguồn lực, xác định đúng nhu cầu thực tế, đề ra mục tiêu, lộ trình phù hợp với khả năng, năng lực HNQT và ĐNQP của từng đơn vị, trong từng thời điểm nhất định.

Cần tạo sự nhất trí cao trong nhận định tình hình thế giới, khu vực, chiều hướng các quan hệ quốc tế, từ đó đề xuất chính sách và hành động thống nhất. Các cơ quan làm công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về quốc phòng cần tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, phối hợp trong nghiên cứu cơ bản và phân tích, dự báo chiến lược về tình hình thế giới, khu vực, về thời cơ và thách thức, nguy cơ đối với an ninh đất nước, về đối tượng, đối tác; về đối sách, chuẩn bị ứng phó kịp thời, hiệu quả các tình huống xảy ra. Cần phối hợp hoạt động, tránh chồng chéo, cục bộ hoặc sơ hở; hỗ trợ, bổ sung cho nhau để từng thành phần có thể phát huy cao nhất khả năng, ưu thế của mình, cộng hưởng nhân lên gấp bội sức mạnh tổng hợp của cả nước.

VŨ HỒNG KHANH