Phong trào thi đua (PTTĐ) xây dựng “Đơn vị nuôi quân giỏi, quản lý quân nhu tốt” (ĐVNQG,QLQNT) là một nội dung của PTTĐ "Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy".  Mục tiêu của phong trào là tạo khí thế thi đua sôi nổi, rộng khắp với các chỉ tiêu, biện pháp cụ thể làm chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn công tác quân nhu. Trong đó, tập trung vào các mặt công tác lớn như: bảo đảm ăn, mặc, tăng gia sản xuất (TGSX) và quản lý xây dựng ngành. Sau 10 năm thực hiện PTTĐ xây dựng ĐVNQG, QLQNT đã có sức lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng và mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của bộ đội.  

Từ cuộc thi ĐVNQG, QLQNT do Cục Quân nhu tổ chức (năm 2009) và cuộc thi do các đơn vị tự tổ chức (năm 2010), đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong xây dựng, phát triển PTTĐ ở tầm cao hơn, vững chắc hơn, toàn diện hơn và thiết thực, hiệu quả hơn. Nhiều mô hình quân nhu phong phú, đa dạng, mang tính cơ bản, thiết thực, vững chắc, phù hợp với điều kiện thực tế của từng đơn vị được nhân rộng. Chất lượng nuôi dưỡng bộ đội được nâng lên rõ rệt, góp phần xây dựng ngành Quân nhu chính quy, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Để đánh giá khách quan kết quả thực hiện PTTĐ xây dựng ĐVNQG, QLQNT, ngoài việc kiểm tra thường xuyên và đột xuất, năm 2014 Cục Quân nhu tiến hành phúc tra toàn diện PTTĐ tại các đơn vị trong toàn quân. Kết quả cho thấy hầu hết lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị đã nhận thức sâu sắc về mục đích, ý nghĩa PTTĐ; chủ động đề ra nhiều giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu PTTĐ và gắn PTTĐ xây dựng ĐVNQG, QLQNT với PTTĐ Quyết thắng ở đơn vị. Các đơn vị đã đầu tư nhiều kinh phí, công sức và trí tuệ để thúc đẩy PTTĐ ngày càng phát triển sâu, rộng hơn, mang lại hiệu quả thiết thực hơn.

Đồng chí Cục trưởng  Cục Quân nhu (bên phải) chỉ đạo phát triển  vườn rau cao cấp trong nhà lưới tại Trung đoàn 102-Sư đoàn 308-Quân đoàn 1. Ảnh: Lương Thảo.      

Đến nay, hệ thống các văn bản chỉ huy, chỉ đạo của các cấp về PTTĐ xây dựng ĐVNQG, QLQNT đều được ban hành đầy đủ, thống nhất, làm cơ sở để triển khai thực hiện. Kế hoạch công tác của hầu hết chỉ huy đơn vị và Kế hoạch xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện đều xác định xây dựng ĐVNQG, QLQNT là một nội dung quan trọng với các chỉ tiêu cụ thể. Hệ thống nhà ăn, nhà bếp trong toàn quân được xây dựng khang trang, sạch, đẹp, chính qui. Hầu hết bếp ăn có quân số từ 40 người ăn trở lên được trang bị hệ thống bếp lò hơi cơ khí nhằm nâng cao chất lượng chế biến nấu ăn, rút ngắn thời gian nấu, tiết kiệm chất đốt, cải thiện đáng kể cường độ lao động của nuôi quân; góp phần bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng nuôi dưỡng bộ đội …; trang bị dụng cụ nhà ăn, nhà bếp được bảo đảm đồng bộ, thống nhất. Các đơn vị đã tích cực đầu tư xây dựng trạm chế biến, giết mổ tập trung, mua sắm thêm trang bị đồng bộ. Định lượng ăn của bộ đội bảo đảm đủ và vượt so với quy định; cơ cấu bữa ăn hợp lý, thực đơn bữa chính có 3 đến 4 món ăn giàu chất dinh dưỡng, bữa sáng có thức ăn. Công tác vệ sinh nhà ăn, nhà bếp; vệ sinh an toàn lương thực, thực phẩm (LTTP) được bảo đảm; chế độ lưu nghiệm thức ăn được duy trì tốt, không để xảy ra hiện tượng ngộ độc do ăn uống. Hệ thống bảng, biểu chính quy nhà ăn, nhà bếp đúng quy định. Các kho quân nhu thường xuyên và dự trữ SSCĐ được sắp xếp hợp lý. Một số đơn vị còn đầu tư mua sắm, lắp đặt thêm tủ bảo ôn, kho bảo ôn để bảo quản thực phẩm, rau, củ, quả dự trữ.

Công tác bảo đảm và quản lý quân trang cũng có bước tiến vững chắc, chất lượng quân trang ngày càng được nâng lên, đáp ứng yêu cầu mang mặc thống nhất, chính qui. Đặc biệt là quân trang sỹ quan K08, quân trang dã ngoại và quân trang nghiệp vụ của các lực lượng đặc thù đã đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội chính quy trong giai đoạn mới, phù hợp đặc điểm nhiệm vụ của các quân chủng, binh chủng, thuận tiện trong sử dụng; phù hợp với điều kiện khí hậu nước ta và mang tính hội nhập cao; đồng thời, giữ được bản chất truyền thống của quân đội cách mạng và mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, gần gũi với nhân dân, hòa đồng với chiến sĩ.

Công tác tăng gia sản xuất (TGSX) được duy trì thành nền nếp. Các đơn vị đã quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho phát triển sản xuất theo hướng tập trung, bền vững và ổn định lâu dài, tạo nguồn thực phẩm tại chỗ có chất lượng cao với cơ cấu cây trồng, vật nuôi đa dạng, hợp lý. Hầu hết các đơn vị đã đầu tư kinh phí, công sức xây dựng, củng cố, cải tạo vườn rau chuyên canh cấp trung đoàn và tương đương theo hướng cơ bản, với diện tích phù hợp. Nhiều đơn vị còn đầu tư xây dựng vườn, chuồng kiên cố; áp dụng khoa học, công nghệ vào TGSX tạo ra sản phẩm có chất lượng cao phục vụ bữa ăn bộ đội và tạo nguồn quỹ vốn cho đơn vị, góp phần bình ổn giá thị trường và ổn định bữa ăn hàng ngày của bộ đội; chủ động đáp ứng nhu cầu định lượng với giá sản phẩm đưa vào bữa ăn thấp hơn từ 15 đến 20% so với sản phẩm cùng loại, cùng thời điểm ngoài thị trường. Kết quả bình quân trong 5 năm (2011-2015), các đơn vị đã tự túc được 95% định lượng rau, củ, quả; 66% định lượng thịt và 31% định lượng cá.

Cùng với các mặt công tác trên, công tác huấn luyện quân nhu cũng có chuyển biến tích cực. Các đơn vị đã thực hiện có nền nếp công tác huấn luyện theo phương châm cơ bản, thiết thực, vững chắc, gắn lý luận với thực tế đơn vị; gắn huấn luyện quân sự với hậu cần. Trong đó, việc tổ chức huấn luyện bồi dưỡng nghiệp vụ ngành, phổ biến tiêu chuẩn chế độ quân nhu... được thực hiện thường xuyên; nội dung, phương pháp và thời gian huấn luyện phù với từng  đối tượng. Công tác tổ chức, sử dụng lực lượng cán bộ, nhân viên ngành Quân nhu từng bước được điều chỉnh hợp lý, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị.

 

Bên cạnh những kết quả đạt được, PTTĐ cũng còn một số hạn chế đó là: một số đơn vị  xác định chỉ tiêu, nội dung, biện pháp thi đua chưa sát với thực tế; chưa xác định rõ được khâu đột phá nhằm làm chuyển biến khâu yếu, mặt yếu để thúc đẩy PTTĐ phát triển. Hoạt động của Hội đồng giá chưa đều, do đó giá LTTP, chất đốt có thời điểm còn cao so với khung giá quy định và thị trường. Tổ chức qui hoạch mô hình TGSX ở một số đơn vị chưa rõ nét, thiếu vững chắc. Có đơn vị tuy đã mạnh dạn tổ chức chăn nuôi con giống mới nhưng chưa nắm vững kỹ thuật, chưa xác định được nguồn tiêu thụ ổn định nên hiệu quả không cao. Công tác quản lý sản phẩm TGSX có đơn vị chưa chặt chẽ, ghi chép thống kê chưa khoa học, việc hạch toán chưa chính xác... Vì vậy, để tiếp tục đẩy mạnh PTTĐ xây dựng ĐVNQG, QLQNT trong thời gian tới, các đơn vị cần tập trung làm tốt một số nội dung, biện pháp chủ yếu sau:  

 

Một là, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ huy, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong tổ chức thực hiện PTTĐ xây dựng ĐVNQG, QLQNT, gắn với PTTĐ “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy” và các phong trào thi đua khác. Thường xuyên kiện toàn ban chỉ đạo PTTĐ ở các đơn vị, phát huy vai trò tham mưu của cơ quan quân nhu các cấp trong quá trình triển khai thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm thực hiện của bộ đội. Chú trọng xây dựng đơn vị điểm và nhân rộng các mô hình điển hình phù hợp với từng loại hình đơn vị. Làm tốt công tác sơ tổng kết, rút kinh nghiệm và kịp thời khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích cao trong PTTĐ nhằm động viên, khích lệ tinh thần tự giác tham gia của cán bộ, chiến sỹ.

Hai là, tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá kết quả PTTĐ đối với các đơn vị theo quy chế đã ban hành. Cơ quan quân nhu các cấp chủ động đề xuất, tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy ban hành các văn bản chỉ đạo PTTĐ đảm bảo sát, đúng, phù hợp với thực tế; rà soát, điều chỉnh, bổ sung các văn kiện quân nhu SSCĐ; xây dựng, điều chỉnh và hoàn thiện kế hoạch quân nhu theo đúng qui định. Bảo đảm đầy đủ, đồng bộ vật chất, trang bị quân nhu cho các đơn vị theo khả năng ngân sách. Không ngừng kiện toàn và phát huy trách nhiệm của Hội đồng giá các cấp trong việc quản lý giá LTTP. Chủ động khai thác, tạo nguồn LTTP chất lượng cao phục vụ bữa ăn bộ đội, không để bị động trước diễn biến của thị trường. Tích cực bồi dưỡng năng lực, trình độ cho lực lượng nuôi quân; không ngừng cải tiến, chế biến món ăn, nâng cao chất lượng nuôi dưỡng bộ đội. Tiếp tục hoàn chỉnh việc xây dựng và ban hành chế độ, tiêu chuẩn quân nhu cho một số lực lượng làm nhiệm vụ đặc thù, lực lượng mới thành lập. Rà soát qui hoạch, xây dựng các mô hình TGSX theo hướng cơ bản với qui mô phù hợp và phát huy tốt tiềm năng thế mạnh của đơn vị. Chủ động liên hệ với các cơ quan trong và ngoài quân đội để học hỏi, tích cực áp dụng khoa học, công nghệ mới vào TGSX, phát triển các mô hình chăn nuôi, trồng trọt với cơ cấu hợp lý theo hướng thâm canh tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, phù hợp với từng loại hình, từng đơn vị và từng vùng, miền. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc hạch toán giá sản phẩm TGSX ở các đơn vị, bảo đảm chính xác.

Ba là, triển khai thực hiện tốt kế hoạch công tác quân nhu hàng năm, bảo đảm hoàn thành các chỉ tiêu đã xác định. Từng bước kiện toàn tổ chức, biên chế cán bộ, nhân viên ngành Quân nhu các cấp; nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên quân nhu; quản lý chặt chẽ số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành; phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên quân nhu đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật quân nhu; thực hiện nghiêm việc giám sát, kiểm định chất lượng trong khâu tạo nguồn vật chất quân nhu. Phát huy tinh thần tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ. Tích cực, chủ động nắm bắt thông tin kinh tế-xã hội, thị trường để có biện pháp khai thác, tạo nguồn vật chất quân nhu phù hợp, hiệu quả. Từng bước mở rộng đấu thầu trong tạo nguồn hàng quân nhu, bảo đảm đúng qui định của pháp luật và tiết kiệm ngân sách ngành Quân nhu.

Bốn là, duy trì nghiêm chế độ kiểm tra công tác bảo đảm quân nhu theo phân cấp; gắn vai trò trách nhiệm của người lãnh đạo, chỉ huy đơn vị vào hoạt động bảo đảm quân nhu. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng công tác nhằm không ngừng nâng cao chất lượng công tác cho cán bộ, nhân viên quân nhu các cấp. Thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý quân nhu. Tăng cường công tác huấn luyện, diễn tập nâng cao khả năng cơ động, bảo đảm của cơ quan quân nhu đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ SSCĐ. Tích cực tổ chức tập huấn, hội thao, hội thi chuyên ngành Quân nhu nhằm nâng cao chất lượng công tác cho đội ngũ cán bộ, nhân viên quân nhu.

Năm là, Tiếp tục quán triệt, triển khai kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 623/NQ-QUTW ngày 29/10/2012 của Quân ủy Trung ương về công tác hậu cần Quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện phương thức bảo đảm quân nhu cho toàn quân; đề xuất kiện toàn tổ chức ngành Quân nhu và làm tốt công tác đào tạo, huấn luyện xây dựng ngành Quân nhu vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Với sự nỗ lực, quyết tâm cao của đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành Quân nhu. Tin rằng, PTTĐ xây dựng ĐVNQG,QLQNT trong toàn quân tiếp tục có những bước phát triển mới, toàn diện, góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao./.

Đại tá NGUYỄN XUÂN HẢI, Cục trưởng Cục Quân nhu