Ebola là bệnh dịch do vi rút Ebola (trước đây gọi là sốt xuất huyết Ebola) gây ra. Đây là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm nhóm A có khả năng lan nhanh, tỷ lệ tử vong rất cao (có thể tới 90%). Bệnh lây truyền do tiếp xúc trực tiếp với mô, máu và dịch cơ thể của động vật hoặc người nhiễm bệnh, có thể bùng phát thành dịch. Dịch Ebola bùng phát lần đầu tiên năm 1976 tại một khu làng nhỏ của Congo nằm bên dòng sông Ebola. Tính đến tháng 12/2013, Châu Phi đã xảy ra 24 vụ dịch, số mắc cao nhất là vụ dịch tại Cộng hòa Công-gô năm 1995 làm cho 315 người mắc với 254 trường hợp tử vong. Vụ dịch đang xảy ra tại Tây Phi hiện nay được coi là lớn nhất trong lịch sử gần 4 thập kỷ của căn bệnh này. Tính đến ngày 12/9/2014, toàn thế giới đã có 4.422 ca mắc bệnh, trong đó có 2.261 ca tử vong. Dịch chủ yếu xảy ra tại 4 nước Tây Phi gồm Guinea, Liberia, Nigeria và Sierra Leone.
Mầm bệnh
Vi rút Ebola là 1 trong 3 giống thuộc họ Filoviridae family (filovirus), cùng với Marburgvirus và Cuevavirus. Ebolavirus bao gồm 5 chủng khác nhau là: Zaire Ebolavirus (EBOV); Sudan Ebolavirus (SUDV); Bundibugyo Ebolavirus (BDBV); Tai Forest Ebolavirus (TAFV); Reston Ebolavirus (RESTV). Trong đó BDBV, EBOV và SUDV đã từng gây dịch lớn tại châu Phi.Chủng gây dịch hiện nay tại Tây Phi là Zaire Ebolavirus. Tính từ năm 1967 đến nay, Zaire Ebolavirus là nguyên nhân của 13/25 vụ dịch và tỷ lệ tử vong do Zaire Ebolavirus là cao nhất, tới 90%. Các nghiên cứu cho thấy Zaire Ebolavirus chưa thay đổi về độc tính, nhưng khả năng lây truyền hiện tại là lớn nhất.
Nguồn truyền nhiễm
Nguồn nhiễm bệnh dịch Ebola chủ yếu lây qua ổ bệnh thiên nhiên, trong đó, con dơi ăn quả (Pteropodidae) được coi là chủ thể của virus Ebola. Ngoài ra, tinh tinh, khỉ đột, khỉ, linh dương cũng là những con vật có khả năng gây nhiễm bệnh cao cho con người. Người nhiễm bệnh Zaire Ebolavirus ban đầu là người sống trong rừng có tiếp xúc với động vật ốm hoặc chết như tinh tinh, vượn người, khỉ rừng, linh dương, nhím, dơi ăn quả. Sau đó, lây qua các thành viên gia đình hoặc những người có tiếp xúc gần với người bị bệnh; tiếp đó đến nhân viên y tế trực tiếp chăm sóc bệnh nhân; các nhân viên lễ tang, người có tiếp xúc trực tiếp với thi thể bệnh nhân.
 |
|
Phương thức truyền vi rút Ebola
Vi rút Ebola có thể lây truyền từ người sang người do tiếp xúc trực tiếp qua vết thương da hoặc niêm mạc có tiết máu, chất tiết và dịch cơ thể (phân, nước tiểu, nước bọt, tinh dịch) của người bị nhiễm. Ngoài ra, cũng có thể nhiễm do tiếp xúc với các dụng cụ hoặc đồ vật của bệnh nhân như quần áo, chăn, dụng cụ y tế đã tiệt trùng nhưng chưa kỹ, không đảm bảo. Một số ít khác có thể bị nhiễm vi rút Ebola nếu xử lý hoặc ăn thịt động vật nhiễm vi rút Ebola chưa nấu chín.
Chẩn đoán:
Theo triệu chứng: Biểu hiện lâm sàng: Thời gian ủ bệnh trung bình là 2-21 ngày, với các triệu chứng thường gặp như sau: Ban đầu, bệnh nhân bị sốt cấp tính; đau đầu, đau mỏi cơ; nôn hoặc buồn nôn; tiêu chảy; đau bụng; viêm kết mạc. Sau đó, có thể có biểu hiện phát ban; lúc đầu ban nhú đỏ sẫm mầu như đinh ghim tập trung ở nang lông, sau hình thành nên tổn thương ban dát sẩn có ranh giới rõ và cuối cùng hợp thành ban lan tỏa, thường trong tuần đầu của bệnh. Bệnh nhân nặng có triệu chứng xuất huyết, thường đi ngoài phân đen, chảy máu nơi tiêm truyền, ho ra máu, chảy máu chân răng, sau đó đái ra máu, chảy máu âm đạo.
Chẩn đoán ca bệnh Ebola: Đối với ca bệnh nghi ngờ, dựa vào yếu tố dịch tễ, nếu thấy trong vòng 3 tuần trước khi khởi phát triệu chứng bệnh nhân tiếp xúc với máu hay dịch cơ thể của người được xác định hoặc nghi nhiễm Ebola hoặc sống, thường xuyên lui tới vùng dịch Ebola đang lưu hành; trực tiếp xử lý, tiếp xúc với dơi, chuột hoặc động vật linh trưởng từ các vùng dịch tễ đều là những đối tượng nghi ngờ bị mắc bệnh dịch. Ngoài ra, dựa vào triệu chứng lâm sàng của bệnh cũng có thể bước đầu xác định bệnh nhân bị nhiễm. Sau khi xét nghiệm PCR dương tính, ca bệnh nghi ngờ sẽ được chuyển thành ca bệnh xác định.
Điều trị: Hiện nay, thế giới vẫn chưa có vắc xin điều trị bệnh dịch này. Kể cả thuốc điều trị đặc hiệu vẫn chưa sản xuất được, chủ yếu vẫn là phương pháp điều trị triệu chứng hỗ trợ.
Phòng, chống dịch: Về biện pháp dự phòng, cần tuyên truyền cho toàn thể nhân dân và bộ đội hiểu rõ về mầm bệnh, nguồn bệnh, đường lây, biện pháp phòng, chống. Lực lượng y tế và đội ngũ quân y các cấp cần giám sát phát hiện sớm các ca bệnh truyền nhiễm. Đặc biệt chú ý đến các trường hợp đi công tác, lao động, học tập từ vùng có dịch trở về và công dân từ các quốc gia ở vùng có dịch nhập cảnh vào Việt Nam. Nếu xác định ca bệnh nghi ngờ, cần chuyển ngay người bệnh về bệnh viện. Trong sinh hoạt, cần thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm, ăn chín, uống sạch; không ăn tiết canh và các món chế biến từ thịt sống; không sử dụng gia súc, gia cầm ốm, chết, không rõ nguồn gốc. Đặc biệt, không nên ăn thịt thú rừng, chim trời không rõ nguồn gốc.
Đối với các đơn vị quân đội cần tăng cường các biện pháp phòng chống dịch không đặc hiệu như: Tuyên truyền cho các cán bộ, chiến sĩ thực hiện rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, lao động. Thực hiện súc họng 2 lần/ngày (sáng dậy, tối trước khi đi ngủ) và nhỏ mũi bằng nước muối 0,9%. Giữ gìn vệ sinh nơi ăn, ngủ, bảo đảm thông thoáng, hàng tuần tối thiểu phải 01 lần phơi toàn bộ quần áo, chăn, màn vào ngày trời nắng. Khi có các triệu chứng sốt cấp tính, đau đầu, đau mỏi cơ; nôn, buồn nôn, tiêu chảy, đau bụng phải đến ngay cơ sở quân y để được khám và điều trị.
Biện pháp chống dịch
Nếu phát hiện đơn vị mình có dịch, chỉ huy đơn vị cần triển khai thực hiện nghiêm “Kế hoạch hành động khẩn cấp phòng chống dịch cúm ở người và các dịch lạ nguy hiểm khác trong Quân đội” số 4610/KH-BQP, ngày 21/6/2013 của Bộ Quốc phòng. Tổ chức cách ly, giám sát phát hiện sớm các ca bệnh nghi ngờ chuyển về bệnh viện điều trị. Thực hiện nghiêm các biện pháp phòng chống dịch không đặc hiệu.
Đối với các cơ sở điều trị, cần thực hiện nghiêm ngặt việc khám và phân luồng bệnh nhân. Tổ chức cách ly và điều trị bệnh nhân, triển khai các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn, trang bị phòng hộ cá nhân cho nhân viên y tế, người chăm sóc và bệnh nhân theo “Hướng dẫn thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn tại các cơ sở khám chữa bệnh trong quân đội” do Cục Quân y ban hành năm 2013.
Ngoài ra, phải tổ chức khử trùng tại đơn vị và môi trường xung quanh. Chất thải của bệnh nhân phải được xử lý triệt để bằng dung dịch hóa chất khử trùng có clo với nồng độ 1,25% - 2,5% clo hoạt tính với tỷ lệ 1:1 trong thời gian ít nhất 30 phút, sau đó đổ vào nhà tiêu hợp vệ sinh hoặc hố thu gom và xử lý phân. Toàn bộ quần áo, chăn màn, đồ dùng đã sử dụng của bệnh nhân trong thời gian bị bệnh phải ngâm vào dung dịch hóa chất khử trùng có clo với nồng độ 0,5% clo hoạt tính trong 1 - 2 giờ trước khi đem giặt, rửa. Phương tiện chuyên chở bệnh nhân phải được sát trùng tẩy uế bằng dung dịch hóa chất khử trùng có clo với nồng độ 0,5% clo hoạt tính. Khu vực cách ly và nhà bệnh nhân phải được khử khuẩn bằng cách phun, lau chùi hóa chất khử khuẩn 0,5% clo hoạt tính. Các vật dụng, đồ dùng trong nhà bệnh nhân phải được lau chùi bằng hóa chất sát khuẩn 0,5% clo hoạt tính.
Khi phát hiện ca bệnh nghi ngờ nhiễm vi rút Ebola, chỉ huy đơn vị, cơ quan quân y, hệ thống bệnh viện quân y phải báo cáo ngay lên cơ quan Quân y cấp trên và Cục Quân y để kịp thời triển khai các biện pháp xử trí, đối phó kịp thời, hạn chế thấp nhất tác hại của bệnh dịch, góp phần bảo đảm tỉ lệ quân số khỏe cho đơn vị.
Đại tá, TS LÊ NGỌC ANH (Cục Quân y-BQP)