Bác sỹ Vũ Văn Cẩn sinh ngày 15/10/1915 trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống cách mạng tại xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Với trí thông minh, năm 1936, ông thi đỗ vào Đại học Y khoa Hà Nội. Không chỉ nổi tiếng là sinh viên siêng năng học tập, ông còn tích cực tham gia Tổng hội sinh viên yêu nước; là thành viên của báo “Tiếng gọi sinh viên”; đặc trách mục “Truyền bá vệ sinh và tân y dược học” của Tạp chí Thanh Nghị- tờ báo có tiếng của giới tri thức Việt Nam thời bấy giờ. Ông đã có nhiều đóng góp hết sức tích cực trong việc vận động sinh viên, học sinh tham gia vào phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, tuyên truyền nếp sống vệ sinh trong các tầng lớp nhân dân lao động...Năm 1943, ông tốt nghiệp Đại học Y khoa, với luận văn“Góp phần nghiên cứu mổ quặm mi sẹo do mắt hột”, góp phần giải quyết điều trị bệnh mắt hột, một bệnh thường gặp của nhân dân ta thời bấy giờ. Đầu năm 1944, thực dân Pháp trưng tập ông cùng một số bác sĩ khác vào quân đội, được 3 tháng thì xảy ra đảo chính Nhật –Pháp; chúng buộc ông chạy sang Trung Quốc, nhưng ông trốn về Hà Nội và tiếp tục hoạt động trong Tổng hội sinh viên yêu nước. Cuối năm 1944, ông bị quân đội Nhật bắt giam tại hầm nhà dầu Shell, phố Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông được giải thoát. Tháng 9/1945, Bác sỹ Vũ Văn Cẩn tình nguyện ra nhập Quân đội cách mạng và được cử làm Giám đốc Ban Y tế Giải phóng quân, rồi Giám đốc Ban Y tế Vệ quốc đoàn toàn quốc.
Ngày 25/3/1946, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 35/SL bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Quân y. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta khi đó đầy gian khổ, thiếu thốn, ông và vợ là bà Từ Thị Giốc đã bán toàn bộ nữ trang để lấy tiền mua thuốc, đem toàn bộ trang thiết bị, thuốc men từ phòng khám của mình phục vụ kháng chiến. Đồng thời tích cực vận động nhiều người tham gia quân đội, quyên góp tiền, vàng, thuốc men... ủng hộ kháng chiến.
Để xây dựng nền y học quân sự cách mạng non trẻ, ông đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm bảo vệ sức khỏe bộ đội và cứu chữa, điều trị cho thương binh, bệnh binh (TBBB); thực hiện 5 phương châm sáng tạo trong hoạt động quân y; quy hoạch lại hệ thống bệnh viện; hoàn thành lý luận về tổ chức bảo đảm quân y trong chiến tranh (bao gồm nhiều vấn đề quan trọng như: Tổ chức cứu chữa TBBB theo bậc thang điều trị; tiếp tế quân y theo cơ số; ban hành điều lệ cứu chữa TBBB…). Đặc biệt, ông đã trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo bảo đảm xuất sắc quân y cho chiến dịch Điện Biên phủ, góp phần quan trọng làm nên chiến thắng vĩ đại “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” của dân tộc ta.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bác sỹ Vũ Văn Cẩn, Cục Quân y đã phát triển từ không đến có, liên tục trưởng thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chỉ huy, chỉ đạo tổ chức bảo đảm quân y cho chiến đấu. Hệ thống lý luận về y học quân sự đã được hình thành, từ bảo đảm quân y cho đánh tiêu diệt một cứ điểm độc lập có trên dưới một tiểu đoàn địch, đến bảo đảm thắng lợi quân y cho một chiến dịch tiến công trận địa, hiệp đồng binh chủng, tiêu diệt cả một tập đoàn cứ điểm mạnh, phức tạp, kiên cố của địch. Đó là tiến bộ vượt bậc có ý nghĩa cả về mặt chính trị tư tưởng và tổ chức bảo đảm, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ; trực tiếp góp phần xây dựng những vấn đề lý luận đầu tiên cho y học quân sự Việt Nam; khẳng định vị trí, nhiệm vụ, tổ chức của Cục Quân y và ngành Quân y trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên cương vị Cục trưởng Cục Quân y, kiêm Thứ trưởng Bộ Y tế (1960); Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần (1965), Thiếu tướng Vũ Văn Cẩn đã tham mưu cho Tổng cục Hậu cần và Bộ Quốc phòng xây dựng được hệ thống tổ chức quân y hoàn chỉnh từ cấp chiến lược đến cấp chiến thuật; tổ chức bồi dưỡng, đào tạo được đội ngũ cán bộ quân y phát triển toàn diện, đáp ứng được yêu cầu của chiến trường; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cứu chữa, vận chuyển TBBB ở các chiến trường miền Nam, chiến trường C, K và ở miền Bắc.
Trước kẻ địch có tiềm lực mạnh về kinh tế, quân sự, trình độ kỹ thuật hiện đại; lại phải hoạt động trong điều kiện hết sức khó khăn ở chiến trường miền núi, trong môi trường có nhiều ổ bệnh thiên nhiên, chủ yếu là sốt rét. Cục Quân y đã chỉ huy, chỉ đạo toàn Ngành phấn đấu đẩy mạnh công tác nghiên cứu và phát triển kỹ thuật, bảo đảm cấp cứu điều trị một số lượng lớn TBBB, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ sức khoẻ cho bộ đội chiến đấu trên các chiến trường.
Tổ chức chiến thuật quân y đã được Cục đầu tư nghiên cứu ở cả cấp chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và đã xác định được nguyên tắc phổ biến là “Tổ chức cứu chữa vận chuyển TBBB theo tuyến, theo khu vực và kết hợp quân dân y”. Nguyên tắc này được vận dụng linh hoạt, sáng tạo và rất hiệu quả trong tổ chức cứu chữa TBBB trên các chiến trường miền Nam và trong chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.
Công tác kỹ thuật quân y được đầu tư, phát triển toàn diện trên tất cả các mặt, gắn liền với nhiệm vụ phục vụ bộ đội, phục vụ chiến đấu. Nổi bật là những đề tài về ngoại khoa dã chiến như: Phòng chống nhiễm khuẩn vết thương, xử trí vết thương do bom bi, xử trí bỏng, xử trí vết thương nóng, phức tạp; giải quyết các vết thương và di chứng chiến tranh phức tạp của chuyên khoa sọ não thần kinh, mạch máu, lồng ngực, tiết niệu, bụng chậu; các phẫu thuật chấn thương chỉnh hình; phẫu thuật tạo hình các tổn khuyết lớn ở hàm mặt, hậu môn, thực quản, dương vật, phẫu thuật trám cơ, chuyển gân, ghép xương, tạo khớp bán phần hoặc toàn phần bằng khớp đồng loại hoặc kim loại, các phẫu thuật tạo hình mỏm cụt. Nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật, chỉ 3 năm sau khi kết thúc chiến tranh, ngành ngoại khoa đã tự giải quyết cơ bản xong các loại di chứng vết thương chiến tranh với chất lượng tốt, thời gian rút ngắn được một nửa, với số lượng tăng khoảng 20 lần so với trong kháng chiến chống Pháp. Thành tựu trên đã góp phần quan trọng vào công tác giải quyết chính sách cho TBBB sau chiến tranh - một vấn đề hết sức nặng nề của đất nước. Công tác nội khoa và dịch tễ có các đề tài nghiên cứu về phòng chống bệnh dịch mới. Trong đó, nghiên cứu phòng chống sốt rét là một vấn đề lớn đã được nghiên cứu liên tục từ năm 1955-1975, cả ở chiến trường và hậu phương, ở phòng thí nghiệm, bệnh viện và thực địa. Ngay trong chiến tranh, Bác sỹ Vũ Văn Cẩn đã yêu cầu cơ quan Cục Quân y chỉ đạo giải quyết được những vấn đề rất thiết thực như điều tra cơ bản về sốt rét, cấp cứu điều trị các thể sốt rét nặng, phòng chống sốt rét ở những đơn vị lưu động và những đơn vị tĩnh tại. Các công trình nghiên cứu và tổng kết về sốt rét ác tính đã giúp thống nhất nhận thức về những điều kiện chuyển sang ác tính, về chẩn đoán, cấp cứu, điều trị, nuôi dưỡng, vận chuyển bệnh nhân sốt rét ở các tuyến. Những nguyên tắc cấp cứu điều trị sốt rét ác tính, dùng thuốc đặc hiệu và phối hợp dùng thuốc trong sốt rét ác tính đã được nghiên cứu và phổ biến áp dụng, tổ chức cấp cứu sốt rét ác tính cũng được kiện toàn ở các trạm giao liên, ở tiểu đoàn, trạm xá, đội điều trị và bệnh viện. Tỷ lệ tử vong do sốt rét ác tính ở nhiều chiến trường đã giảm 3-4 lần so với năm 1965 (năm đầu chống Mỹ) và dao động ở mức 8%, có bệnh viện nhiều năm không có tử vong do sốt rét ác tính.
Trên cương vị Bộ trưởng Bộ Y tế (từ năm 1975 – 1982), ông đã đề ra nhiều biện pháp tích cực kết hợp chặt chẽ công tác chuyên môn, phát triển khoa học kỹ thuật với phong trào quần chúng; phát động và đẩy mạnh phong trào 5 dứt điểm về công tác y tế; chỉ đạo xây dựng y tế miền Nam sau ngày giải phóng; xây dựng y tế phổ cập gắn liền với việc từng bước phát triển y tế chuyên sâu... Là một cán bộ lãnh đạo sâu sát cơ sở, ông đã chỉ đạo ngành Y tế kịp thời giải quyết nhiều khó khăn do thực tiễn đặt ra…; tích cực chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế cả về trình độ chuyên môn và y đức. Đặt biệt, ông đã phát động trong toàn Ngành phong trào học tập làm theo lời dạy của Bác Hồ: “Người thầy thuốc giỏi đồng thời phải là như người mẹ hiền”. Nhiều chủ trương ông đề ra đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Với những công lao đóng góp to lớn, Bác sỹ Vũ Văn Cẩn đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huân chương Quân công hạng Nhì; Huân chương Chiến công hạng Nhất... Đặc biệt, ngày 21/10/2014, ông vinh dự được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Pháp .
CÔNG TÂM