Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng là vùng giải phóng quan trọng nhất của cách mạng Lào; địa bàn có giá trị chiến lược về quân sự, chính trị, kinh tế, có địa thế bảo vệ trực tiếp vùng căn cứ địa Sầm Nưa; uy hiếp và trực tiếp tiến công căn cứ Long Chẹng của lực lượng đặc biệt Vàng Pao; uy hiếp thủ đô Viêng Chăn và kinh đô cũ Luangphabang. Đây cũng là một hướng chiến lược phối hợp tác chiến giữa ba nước Đông Dương và quan hệ mật thiết tới tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn của ta. Đế quốc Mỹ coi Cánh đồng Chum “là chìa khóa của nước Lào” và chọn đây làm nơi thí điểm học thuyết Níchxơn với công thức chiến tranh: “Quân ngụy Lào + quân Thái Lan + không quân, hậu cần, cố vấn Mỹ”. Từ năm 1963 đến đầu năm 1972, đây là địa bàn giằng co quyết liệt: Mùa mưa địch chiếm, mùa khô ta lại giải phóng. Quân ủy Trung ương-Bộ Quốc phòng hai nước Việt Nam-Lào đã thống nhất chủ trương bảo vệ, giữ vững địa bàn chiến lược này khi chiến dịch tiến công mùa khô 1971-1972 kết thúc.

Đầu tháng 4/1972, ta quyết định mở chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum -Xiêng Khoảng nhằm đánh bại kế hoạch lấn chiếm mùa mưa của quân phái hữu Lào và quân đội Thái Lan, bảo vệ vùng giải phóng, giữ vững thế chiến lược của ta ở Bắc Lào, phối hợp với cuộc tiến công 1972 ở chiến trường miền Nam, Việt Nam. Bộ Tư lệnh và Đảng ủy chiến dịch được thành lập do đồng chí Vũ Lập làm Tư lệnh, đồng chí Lê Linh làm Chính ủy. Địa bàn là khu tứ giác Noọng Pẹt-Mường Sủi-Thẩm Lửng- Thị xã Xiêng Khoảng (dài 60 km, rộng 50 km), trong đó Cánh đồng Chum là khu trung tâm, chia thành 5 khu vực phòng ngự: Khu vực trung tâm là khu vực phòng ngự chủ yếu; khu vực Hin Tặng (khu trung gian) là khu vực phòng ngự cơ bản phía trước của hướng phòng ngự chủ yếu; Noọng Pẹt là khu vực phòng ngự thứ yếu; Mường Xủi và thị xã Xiêng Khoảng là hai khu vực tác chiến phối hợp, đánh địch từ xa, bảo vệ khu trung tâm. Mỗi khu vực có các điểm tựa, cụm điểm tựa với hệ thống hầm hào công sự vững chắc, có các trận địa hỏa lực bảo vệ…

Quân tình nguyện Việt Nam tham gia chiến dịch ban đầu có Trung đoàn 174 và 148/Sư đoàn bộ binh 316; Trung đoàn bộ binh 866 và 335; Tiểu đoàn đặc công 41 và 27; Tiểu đoàn pháo binh 42, hai tiểu đoàn pháo phòng không 37mm, 1 tiểu đoàn súng máy phòng không 14,5 mm, 1 tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7mm, 1 tiểu đoàn xe tăng và hai tiểu đoàn công binh. Tháng 10/1972, Bộ tăng cường thêm Trung đoàn bộ binh 88/Sư đoàn 308C. Chỉ huy và cơ quan Sư đoàn 316 hợp nhất với chỉ huy và cơ quan chiến dịch, trực tiếp chỉ huy các trung đoàn chiến đấu. Lực lượng của bạn Lào tham gia chiến dịch có 7 tiểu đoàn bộ binh (4 tiểu đoàn Pathét Lào, 3 tiểu đoàn trung lập yêu nước), 2 đại đội pháo mặt đất, 2 đại đội súng máy phòng không, 1 đại đội công binh, 1 đại đội xe tăng, 4 đại đội bộ đội địa phương.

Lực lượng địch thuộc Quân khu 2, gồm 76 tiểu đoàn bộ binh (Thái Lan có 18 tiểu đoàn tổ chức thành các GM), 3 tiểu đoàn pháo binh; bố trí theo 4 khu vực quanh Cánh đồng Chum, được không quân Mỹ chi viện.

Ngay sau khi kết thúc chiến dịch tiến công (5/4/1972) bộ đội Lào và ta chuyển ngay sang chuẩn bị cho chiến dịch phòng ngự. Trong gần 2 tháng chuẩn bị, ta và Bạn tổ chức đào 500 hầm trú ẩn ven các đường cơ động, 50km hào giao thông, làm hơn 600km đường cơ động cho xe cơ giới, bắc 100 cầu vượt suối để vận chuyển trong mùa mưa. Nhân dân Xiêng Khoảng đã ủng hộ hàng nghìn cây tre, gỗ, hàng trăm tấn tôn để bộ đội làm công sự và làm cầu.

Công tác hậu cần có thuận lợi cơ bản là Chiến dịch tiến hành bảo đảm trong liên minh chiến đấu đặc biệt Việt-Lào, đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm; thời gian chuẩn bị khá dài… Tuy nhiên, cũng có những bất lợi do vừa trải qua chiến đấu liên tục, dài ngày nên sức khỏe bộ đội giảm, quân số thiếu, chưa có điều kiện củng cố; địa bàn rừng núi hiểm trở, nguồn lực tại chỗ rất hạn chế. Mùa mưa, địch đánh phá ác liệt, khối lượng bảo đảm rất lớn, phải vận chuyển từ miền Bắc Việt Nam sang tiếp tế rất khó khăn…Hơn nữa, đây là chiến dịch phòng ngự dài ngày đầu tiên của quân đội ta và liên quân Việt-Lào… Nhận thức rõ điều đó, sau khi có chỉ thị của trên, hậu cần chiến dịch đã triển khai mọi mặt chuẩn bị. Trên cơ sở bộ máy hậu cần chiến dịch tiến công Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng mùa khô 1971-1972 và hợp nhất với hậu cần Sư đoàn 316, đã điều chỉnh các cụm hậu cần, cụm kho phía trước và rút về các căn cứ hậu cần, một bộ phận lực lượng được chuyển giao cho các trung tâm làm nhiệm vụ phòng ngự: Cụm kho Bản Hai ở phía trước giao cho hậu cần Trung đoàn 174 làm nhiệm vụ giữ khu trung gian; cụm kho Bản Khổng rút về căn cứ Noọng Pẹt-Khang Khay, một bộ phận lực lượng và vật chất giao cho hậu cần Trung đoàn 866 phòng ngự khu trung tâm; căn cứ hậu cần Thẩm Cập-Bản Thẩm rút gọn lại thành cụm kho Bản Thẩm ở sau Trung đoàn 866 và cụm kho Bản Quang sau Trung đoàn 148; căn cứ hậu cần chủ yếu Noọng Pẹt - Khang Khay - Lạt Bua cũng được tổ chức lại: Các kho trạm được tổ chức thành 2 đại đội; Bệnh viện 139 cũng tổ chức thành 2 đại đội, vừa làm công tác chuyên môn, vừa sẵn sàng chiến đấu đánh địch xâm nhập. Ngoài ra, hậu cần chiến dịch còn được hậu cần chiến lược tăng cường lực lượng, chi viện bảo đảm. Bạn  cũng tổ chức ra bộ máy hậu cần chiến dịch, do chủ nhiệm hậu cần Quân khu Xiêng Khoảng phụ trách. Việc điều chỉnh tổ chức, thế bố trí hậu cần trên đã hình thành thế bảo đảm theo khu vực, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ an toàn hậu cần. Sau chiến dịch tiến công kết thúc, tồn kho còn gần 1.500 tấn vật chất; giai đoạn chuẩn bị, được Binh trạm 11 và 13 (Cục Vận tải) vận chuyển bổ sung nên dự trữ của hậu cần chiến dịch đạt 4.396 tấn, đủ theo quy định. Hậu cần chiến dịch đã chỉ đạo dự trữ vật chất theo phân cấp hợp lý, có chiều sâu. Các đơn vị phòng ngự dự trữ đủ 1 tháng và bổ sung đủ dự trữ sau từng đợt chiến đấu; ưu tiên các trung đoàn phòng ngự phía trước và khu vực trọng yếu. Hậu cần chiến dịch chuẩn bị sẵn sàng bảo đảm cơ động lực lượng và vận chuyển vật chất bổ sung tại khu vực chiến đấu… Hậu cần các đơn vị đã tích cực cải tạo địa hình, đào hầm hào, công sự bảo đảm an toàn cho người, phương tiện vật chất và chuẩn bị phương án chiến đấu bảo vệ kho trạm, cơ quan hậu cần. Ngày 20/5/1972 mọi công tác chuẩn bị hoàn thành, các đơn vị sẵn sàng bước vào chiến đấu.

Chiến dịch diễn ra 4 đợt. Đợt 1 (21/5-10/8/1972), địch tiến công khu vực trung gian nhằm chiếm bàn đạp; ta kiên quyết ngăn chặn và tổ chức đánh phá sau lưng địch, phản kích khôi phục, giữ vững khu trung gian. Đợt 2 (11/8-10/9/1972), địch mở cuộc tiến công lớn vào Cánh đồng Chum, ta lần lượt bẻ gãy các cánh quân địch, giữ vững địa bàn phòng ngự. Đợt 3 (11-30/9/1972), địch chuyển hướng tiến công, lấy hướng tây là chủ yếu, ta tổ chức trận phản đột kích thứ 2, đánh bại quân địch. Đợt 4 (1/10 -15/11/1972), địch mở đợt tiến công mới nhằm chiếm phía Nam Cánh đồng Chum; ta tập trung lực lượng đánh trận then chốt quyết định, tiêu diệt phần lớn các cụm quân địch, sau đó phát triển sang truy kích, quét địch khỏi các điểm cao phía nam Cánh đồng Chum, buộc chúng phải co cụm về giữ Sảm Thông -Loong Chẹng. Ngày 15/11/1972, chiến dịch kết thúc thắng lợi, ta hoàn toàn làm chủ khu vực trung gian Cánh đồng Chum. Với 244 trận đánh, liên quân Việt-Lào đã loại khỏi chiến đấu hơn 5.600 tên địch (bắt sống 179 tên), thu 800 súng, pháo (có 4 pháo 105mm và 4 cối 106,7mm), bắn rơi 38 máy bay. Đây là chiến dịch phòng ngự hoàn chỉnh đầu tiên, dài ngày nhất của quân đội ta và Quân giải phóng nhân dân Lào với cách đánh sáng tạo, hiệu quả. Thắng lợi của chiến dịch đánh dấu sự phá sản hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt tăng cường” của Mỹ ở Lào. Ta vĩnh viễn xóa đi sự giành giật quyền kiểm soát địa bàn chiến lược Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng trong nhiều năm trước đó, mở ra một thời kỳ mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Lào và phối hợp hiệu quả với cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền Nam Việt Nam.

Để có được thắng lợi đó, công tác hậu cần chiến dịch đã có nhiều nỗ lực đáp ứng kịp thời yêu cầu tác chiến. Nhiều phái viên hậu cần chiến dịch được cử đến các các căn cứ hậu cần, đơn vị phía trước, chỉ đạo giúp đơn vị về bảo đảm hậu cần. Sau mỗi trận đánh, hậu cần các đơn vị đã nhanh chóng củng cố, bổ sung vật chất…

Trong chiến dịch, hậu cần đã bảo đảm 3.918 tấn vật chất: 2.876 tấn lương thực thực phẩm (73,4%), 442 tấn đạn (11,3%), 400 tấn nhiên liệu (10,2%), 200 tấn vật chất khác (5,1%). Quá trình tác chiến, quân y chiến dịch đã tăng cường lực lượng cho các đơn vị phòng ngự, nâng cao khả năng cứu chữa tại chỗ, do đó, đã tổ chức thu dung, điều trị thương binh, bệnh binh chu đáo, làm tốt công tác vệ sinh phòng dịch góp phần giữ vững sức khoẻ, sức chiến đấu của bộ đội trong suốt mùa mưa.

Tổng kết Chiến dịch, Bộ Tư lệnh chiến dịch đánh giá: Công tác bảo đảm hậu cần chiến dịch tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng cán bộ, chiến sĩ hậu cần đã nêu cao tinh thần anh dũng, hăng hái phục vụ nên đã bảo đảm cho chiến dịch giành thắng lợi... Thực tiễn bảo đảm hậu cần cho chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng (21/5-15/11/1972) để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý về phối hợp chặt chẽ giữa hậu cần chiến lược và chiến dịch với hậu cần quân đội  Lào; chỉ huy, chỉ đạo chặt chẽ việc tổ chức chiến đấu, bảo vệ an toàn hậu phương- hậu cần chiến dịch, duy trì khả năng bảo đảm hậu cần liên tục, dài ngày… tạo sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho chiến dịch giành thắng lợi. Những kinh nghiệm đó đã được nghiên cứu, vận dụng trong các chiến dịch sau này, góp phần làm phong phú thêm nghệ thuật hậu cần quân sự Việt Nam.

Đại tá, ThS Trần Đình Quang, Phòng KHQS - TCHC