Tác giả bài viết khi còn trẻ và Chủ tịch A-ra-phát. Ảnh tư liệu

QĐND - Ngày 11-11, ngày người anh hùng của dân tộc chúng tôi- Chủ tịch Y-a-xơ A-ra-phát (Yasser Arafat) vĩnh viễn ra đi 7 năm về trước. Trong những ngày này, cảm xúc của lần đầu tiên được gặp Người cách đây 30 năm tại chính đất nước Việt Nam, mảnh đất tôi có nhiều gắn bó và kỷ niệm đẹp, như sống dậy nguyên vẹn trong tôi. Khi đó, tôi còn là một chàng sinh viên Pa-le-xtin đang theo học ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Sau lần ấy, tôi may mắn được làm phiên dịch cho Chủ tịch trong một số chuyến thăm tới Việt Nam. Trong những dịp đó, tôi đều cảm nhận rất rõ tình cảm của Chủ tịch A-ra-phát đối với đất nước và con người Việt Nam. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng của một người bạn gần gũi luôn khâm phục tinh thần chiến đấu kiên cường vì độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, Chủ tịch A-ra-phát luôn coi Việt Nam là một tấm gương để nhân dân yêu chuộng hòa bình nói chung và nhân dân Pa-le-xtin nói riêng noi theo. Tôi còn nhớ câu nói đầy trìu mến của Người nói với các phóng viên trong một lần tới thăm Việt Nam rằng: “Tôi vẫn chưa có Tổ quốc. Việt Nam là Tổ quốc của tôi!”.

Đã tròn 7 năm kể từ ngày Chủ tịch A-ra-phát ra đi, để lại một đất nước của những người con Pa-le-xtin vẫn chưa được công nhận là công dân của một đất nước độc lập, tự do. Và hơn ai hết, Người đã quả cảm đứng ra đại diện và thúc đẩy sự nghiệp chính nghĩa của họ. Trước lúc Người ra đi đến cõi vĩnh hằng, một phóng viên đã hỏi Người về thành tựu vĩ đại nhất của đất nước Pa-le-xtin là gì? Người nở một nụ cười quen thuộc và đáp rằng: “Chúng tôi đã đưa sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc của Pa-le-xtin trở thành vấn đề lớn nhất trên thế giới. 107 năm sau Hội nghị Basel, 90 năm sau Hiệp ước Sykes Picot, I-xra-en vẫn chẳng thể làm chúng tôi nhụt chí. Chúng tôi ở đây, tại đất nước Pa-le-xtin này, sẵn sàng đối diện với họ”.

Bảy năm sau ngày Chủ tịch qua đời, “vấn đề Pa-le-xtin” vẫn là một trong những vấn đề lớn nhất của thế giới. Và mặc dù hy vọng về một nhà nước độc lập ở Bờ Tây và dải Ga-da với Đông Giê-ru-xa-lem là thủ đô vẫn chưa đạt được, nhưng người dân Pa-le-xtin chúng tôi luôn coi A-bu A-ma (Abu Ammar - bí danh của Chủ tịch A-ra-phát) là người đã góp công thắp lên niềm hy vọng ấy. Mỗi người dân Pa-le-xtin đều tưởng nhớ đến Người như một vị cha của dân tộc mình. Và trên khắp thế giới, những bài viết về tiểu sử của Chủ tịch A-ra-phát hay phản ánh về sự ra đi của ông vẫn gọi ông với cái tên đầy nể trọng - “Ngài Pa-le-xtin”. Cho dù chúng tôi, những người dân Pa-le-xtin hôm nay còn mâu thuẫn về một số quyết định quan trọng mà Người đã đưa ra (ở Am-man, ở Bây-rút, ở An-giê, ở Ô-xlô, ở Ga-da, ở Trại Đa-vít, và cuối cùng là ở Ra-ma-la), cũng như về phong cách và phương pháp lãnh đạo của Người, nhưng hầu như ai cũng có một suy nghĩ chung về di sản mà Người để lại. Hãy hỏi bất cứ người dân Pa-le-xtin nào trên đường phố, hay bất kỳ đâu trên thế giới, họ sẽ trả lời không chút do dự, rằng A-bu Am-ma chính là người đã đưa vấn đề Pa-le-xtin trước đây chỉ là chuyện cung cấp hàng cứu trợ nhân đạo cho những người tị nạn và ly tán bởi chiến tranh, trở thành cuộc đấu tranh chính trị lâu dài của đất nước chiến đấu vì tự do và xứng đáng được hưởng quyền tự chủ dân tộc.

Họ cũng sẽ kể rằng, Chủ tịch A-ra-phát chính là người đã đoàn kết cộng đồng Pa-le-xtin tị nạn bị chia rẽ; rằng Người đã làm thay đổi Tổ chức Giải phóng Pa-le-xtin (PLO), vốn là tổ chức do các nhà nước A-rập lập ra để kiềm chế và kiểm soát các nhóm chính trị Pa-le-xtin, thành một tổ chức bảo vệ cho chủ nghĩa dân tộc của người Pa-le-xtin. Rằng Người đã được người dân Pa-le-xtin trao quyền đại diện cho họ tại tòa án công luận quốc tế. Và trên hết, thông qua nhiều biện pháp vô cùng độc đáo, Người đã giành được sự ủng hộ quốc tế cho sự nghiệp chính nghĩa lâu dài của mình.

Không có gì là khó hiểu khi Chủ tịch A-ra-phát được sự yêu mến rộng rãi đến vậy, không chỉ của người dân Pa-le-xtin, mà còn của đông đảo nhân dân A-rập và trên thế giới nói chung. Người là một “nhà lãnh đạo nhân dân” theo đúng nghĩa nhất bởi luôn có sự nhạy cảm tinh tế đối với tâm trạng và cảm xúc của người dân nước mình. Chiếc khăn đen-trắng của người nông dân mà Chủ tịch A-ra-phát luôn đội trên đầu, bộ quần áo quân đội sờn rách mà Người tuyên bố sẽ chỉ cởi bỏ khi Pa-le-xtin được tự do; những bữa ăn giản dị và lối sống thanh đạm; những cái thơm má, những cái vẫy tay, những cái ôm chặt, những cái bắt tay với quần chúng - tất cả những nét đặc biệt ấy làm nên một nhân cách A-ra-phát.

Những nhà bình luận trên thế giới đã dự báo về sự ra đi của Chủ tịch A-ra-phát và sự kế tục sự nghiệp của Người là của Ma-mút Áp-bát sẽ mở ra một giai đoạn hòa bình mới và nhanh chóng dẫn đến việc thành lập nhà nước Pa-le-xtin. Nhưng hiện thực ở vùng đất này hôm nay không khỏi khiến người ta nản chí. Chính phủ I-xra-en lại một lần nữa tuyên bố họ không có “đối tác vì hòa bình” cùng với việc duy trì các chính sách như mở rộng khu định cư… đã dập tắt mọi tia hy vọng.  

Tròn 7 năm kể từ ngày Chủ tịch A-ra-phát qua đời, nhân dân Pa-le-xtin vẫn không biết người cha già của dân tộc đã chết như thế nào? Nhưng chúng tôi cầu mong cho linh hồn ông được yên nghỉ. Nhân dân Pa-le-xtin sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh chính nghĩa để đạt được ước nguyện của Người.

Chủ tịch A-ra-phát! Tôi vô cùng thương nhớ Người! Huyền thoại về Người sẽ sống mãi, hình ảnh của Người đã, đang và sẽ khắc sâu trong trái tim tôi cũng như trái tim của những người yêu chuộng hòa bình, trong đó có các bạn Việt Nam gần gũi và thân thiết.

Saadi Salama

(Đại sứ Pa-le-xtin tại Việt Nam)