Theo ông V.Xô-kô-lin, lãnh đạo cơ quan Liên bang Nga về công tác thống kê, trong nửa đầu năm 2006, mức giảm tự nhiên về dân số của Nga là 415 nghìn người. Theo dự đoán của các nhà nhân khẩu học, bắt đầu từ năm 2007 trở đi, mức giảm dân số tự nhiên của nước Nga mỗi năm sẽ là gần 1 triệu người.

Trong nửa đầu năm 2005, con số thống kê sinh là 720 nghìn người, trong khi thống kê tử là 1 triệu 181 nghìn người. Thống kê sơ bộ trong nửa đầu năm nay, tại nước Nga có 715 nghìn người được sinh ra. Tuy nhiên, có tới 1 triệu 131 người Nga mất đi. Trên cơ sở những con số thống kê có thể thấy rằng, để nước Nga có thể duy trì mức cân đối 0 về nhân khẩu (nghĩa là dân số chung không giảm cũng không tăng), thì bình quân mỗi người phụ nữ Nga cần sinh 2,13 đứa con.

Một trong những nguyên nhân chủ yếu của xu hướng giảm dân số là quyền tự do của người phụ nữ. Trong thế kỷ XX, phụ nữ bình đẳng với nam giới hầu như ở tất cả các lĩnh vực. Và khi chuẩn bị gây dựng sự nghiệp cá nhân, phần đông phụ nữ trẻ có học vấn và giàu ý chí tiến thủ chọn phương án tạm gác việc sinh con.

Nhìn lại quá khứ, nước Nga từng rất có kinh nghiệm về sử dụng các biện pháp quốc gia để nâng cao tỷ lệ sinh sản. Tháng 3-1943, một sắc lệnh giải phóng nam giới khỏi khoản cấp dưỡng phí nuôi con được ban hành. Sắc lệnh này được thực hiện trong gần 10 năm và đạt đến mục tiêu cấp thời của nó: tỷ lệ sinh đã thực sự gia tăng.

Để giải quyết tình trạng dân số giảm hiện nay của nước Nga, theo ông Xô-kô-lin, phương tiện độc đáo là thu nhận dân nhập cư. Cùng đó, cần tăng cao phụ cấp cho sản phụ và trẻ sơ sinh.

Kinh nghiệm thành công của một số nước trong việc gia tăng tỷ lệ sinh là nâng cao độ tuổi làm việc của dân cư. Chẳng hạn, tại các quốc gia vùng Pri-ban-tích, nơi đã kéo dài độ tuổi làm việc, đang ghi nhận sự gia tăng dân số một cách ổn định như dự tính.

NGỌC MỸ (Theo Komsomolskai Pravda)