Ông Len Aldis với chiếc mũ tai bèo và khăn rằn Việt Nam. Ông nói trọn đời mình sẽ đeo đuổi để tìm công lý cho vụ kiện này

Bất bình trước phán quyết của Tòa án tối cao Mỹ, tổng thư ký Hội Hữu nghị Anh - Việt Len Aldis lại một lần nữa viết thư gửi Tổng thống Mỹ Barack Obama:

“Thưa ngài tổng thống,

Đây là lá thư thứ hai tôi gửi cho ngài. Lá thư thứ nhất, gửi đính kèm, từng bày tỏ hi vọng và ước mơ cho tương lai của rất nhiều người - trong đó có bản thân tôi - sau khi ngài đắc cử trở thành tổng thống.

Đáng buồn là tôi đang viết trong giận dữ trước phán quyết đáng hổ thẹn của Tòa án tối cao Mỹ hôm 2-3, bác bỏ đơn kiện của các cựu binh Mỹ và các nạn nhân Việt Nam (hơn 3 triệu người) bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi chất độc da cam mà quân đội Mỹ từng dùng trong chiến tranh Việt Nam.

Việc phán quyết đó vẫn có thể đưa ra bất chấp những chứng cứ rành rành là một sự xúc phạm đối với các nạn nhân và gia đình họ. Một sự xúc phạm hơn nữa là việc các quan tòa không hề đưa ra bất cứ lý do nào cho phán quyết của mình - một quyết định kinh khủng. Từ chối một lá đơn kháng án xin được xét xử các tập đoàn sản xuất chất độc da cam trước bồi thẩm đoàn chính là một sự hổ thẹn đối với Tòa tối cao và chính nước Mỹ.

Ngài có thể biết rằng vào năm 1984, các cựu binh từng kiện chính các tập đoàn này với cùng những thương tích và bệnh tật, các tập đoàn đã phải dàn xếp ngoài tòa khoản tiền lên tới 180 triệu USD.

Ngài tổng thống, ngài sinh ra vào ngày 4-8-1961, vào chính tháng mà lực lượng không quân Mỹ bắt đầu rải chất độc da cam xuống miền Nam Việt Nam và tiếp tục làm việc đó thêm mười năm nữa. Hậu quả của những cánh rừng bị hủy hoại bởi chất độc da cam này đến nay vẫn có thể nhìn thấy. Với con người, những thương tật nghiêm trọng là chứng tích của chất độc này.

Điều đau đớn nhất là số những người trẻ bị nhiễm chất độc, những đứa trẻ sinh ra rất nhiều năm sau khi chiến tranh chấm dứt - 1975. Di sản khủng khiếp mà nước Mỹ để lại này đã truyền tới thế hệ thứ ba và sắp, nếu không nói là đã, sang đến thế hệ thứ tư. Mỗi năm trong các chuyến thăm của tôi đến Việt Nam, tôi thấy những người chịu tàn tật này, kể cả những người trẻ. Chẳng dễ dàng gì khi chứng kiến đứa trẻ bò trên sàn khi thiếu mất một chi (một cánh tay hay một cẳng chân) hoặc hai chi. Ngài rất đúng khi yêu thương hai cô con gái của mình. Bao bậc cha mẹ khác, kể cả những người có con bị nhiễm chất độc da cam ở Việt Nam, cũng yêu thương con cái mình như vậy thôi.

Ngài có tưởng tượng nổi phán quyết của Tòa tối cao Mỹ đã đối xử thế nào với những bậc cha mẹ này chưa? Tôi từng hỏi điều này trong lá thư gửi cho ngài từ Hà Nội vào ngày 5-12 năm ngoái. Trong đó ngài sẽ thấy tôi đề nghị ngài “đừng chờ đợi bất cứ phán xét của tòa án Mỹ nào nữa, các nạn nhân đã đợi chờ và chịu đựng đủ lâu rồi”.

Ngài tổng thống, Tòa tối cao Mỹ đã đưa ra phán quyết chống lại cả cựu binh Mỹ và các nạn nhân Việt Nam. Bất chấp phán quyết này, ngài có quyền đưa ra chính sách để cung cấp các đền bù tài chính cho các nạn nhân chất độc da cam và gia đình họ.

Xin cho tôi kết thúc thư bằng trích câu nói của Nguyễn Đức - người khi sinh năm 1981 dính liền với người anh Nguyễn Việt của mình. Tháng 11-2006, một nhà báo Mỹ phỏng vấn và em trả lời - theo quan điểm của tôi - đã tổng kết hết được nỗi lòng của các nạn nhân chất độc da cam.

“Tôi thấy nghịch lý rằng một mặt các ngài đưa ra xét xử Saddam Hussein vì sử dụng vũ khí hóa học, nhưng ở một đất nước khác nơi các ngài phun hóa chất xuống trong chiến tranh thì các ngài phớt lờ trách nhiệm.

Nước Mỹ phải thừa nhận trách nhiệm của mình và đền bù cho các nạn nhân da cam Việt Nam. Đó là trách nhiệm đạo đức của các ngài. Dù sớm hay muộn, việc đó cũng phải làm”.

Không ai có thể nói hay hơn thế. Thưa ngài tổng thống, vì công lý cho các nạn nhân, xin hãy làm điều đó sớm hơn.

Trân trọng”.

Thật đáng xấu hổ

Ngay sau khi có lá thư của LS Gerson Smoger gửi cho nhóm da cam và các cựu binh Mỹ, chị Debra Kraus, một nhà hoạt động khác trong lĩnh vực chất độc da cam, gửi thư cho nhóm tiếp tục trao đổi về vấn đề này:

“Thật đáng xấu hổ. Các tập đoàn có mọi chứng cứ ngoại phạm, mọi thứ luật bảo vệ và công lý để bảo vệ cho các báo cáo lỗ lãi của mình, trong khi môi trường và con người chúng ta thì bị hủy hoại vô thương tiếc, gia đình bị phá hoại. Tòa án hiểu rõ tình hình ở Việt Nam nghiêm trọng đến thế nào do sự sản xuất cẩu thả thuốc trừ cỏ theo đơn đặt hàng từ chính phủ của chúng ta. Họ cũng hiểu rằng các chất độc đã ảnh hưởng tới rất nhiều lính từ các nước đồng minh khác.

Ngoài những người New Zealand bị thương do chất độc của Dow ở Paritutu, còn có bãi thử Gagetown ở Canada, rồi rất nhiều người bị bệnh khác ở những nơi chất trừ cỏ được bí mật thử tại nước Mỹ và trên toàn cầu, do phơi nhiễm trong quá trình vận chuyển từ căn cứ này qua căn cứ khác. Chúng ta có cơn ác mộng ngay trong hiện tại này. Chúng ta tự hỏi cái quái gì còn đang nằm trong lòng đất mà chúng ta vẫn trồng nông sản lên sau hàng nhiều thập kỷ có hóa chất của Dow ở đây. Không ngạc nhiên gì khi họ quyết định không để vụ kiện này được tiếp tục. Và sẽ không có tiền lệ nào được đặt ra.

Những sự thật này, cùng nhiều điều khác nữa, không phải là thứ vĩnh viễn và không có tác động gì đến chuyện môi trường bị nhiễm độc. Rõ ràng tình trạng nhiễm độc đã tới mức nghiêm trọng. Chúng ta trên toàn cầu cần phải chung tay lại bất chấp phán quyết kém cỏi này. Chúng ta nên đòi hỏi lời xin lỗi và hỗ trợ tài chính như đã được một số người đề cập ở đây.

Ngoài ra, tôi muốn đề nghị Tổng thống Obama mở một cuộc đối thoại minh bạch về những gì có thể làm để bảo vệ cho tương lai chúng ta và những thế hệ con cháu vẫn chưa sinh ra. Điều quan trọng cần làm rõ là chỉ cho thế giới thấy những kiểu hành động như thế này của các tập đoàn là không thể chấp nhận được và không thể tồn tại như vậy được trong tương lai. Chúng ta cần thay đổi luật pháp để bảo vệ con người chứ không phải bảo vệ các tập đoàn, và cần làm gì đó để cứu trợ (bailout) những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất”.

Theo Tuổi Trẻ