Các doanh nghiệp thép Việt Nam đang đau đầu trước sự thay đổi thất thường của giá cả. Giữa lúc đó, một thông tin gây hoang mang hơn: Công ty Thép Việt- Ý (VIS) đã đặt một doanh nghiệp thép Trung Quốc sản xuất 5.000 tấn thép cây và sẽ nhập khẩu về Việt Nam để bán với nhãn mác của Việt -Ý. Điều này làm phát sinh một nỗi lo lớn: Ngành thép nội địa sẽ bị ăn mòn dần từ bên trong.
Từ một vụ theo kiểu “hồn Trương Ba - da hàng thịt”
Tích Trương Ba nhập hồn, mang lốt của lão hàng bán thịt trong chuyện dân gian chắc ai cũng biết. Và tích trên đã được vận dụng vào chuyện làm ăn kinh tế thời kỳ hội nhập khi người ta đã phù phép để thép Trung Quốc đội lốt thép Việt- Ý. Trong công văn số 88/CT/TT - TGĐ trả lời Hiệp hội thép ngày 24-2, ông Đinh Văn Vì, Tổng giám đốc Thép Việt Ý, cũng đã thừa nhận điều này. Theo Công ty Việt Ý thì những ngày cuối tháng 3 này, lô hàng 5.000 tấn thép nói trên sẽ cập cảng Việt Nam.
Trả lời báo Quân đội nhân dân, ông Phạm Chí Cường - Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cho biết, ngành thép nước ta phải nhập khẩu 50% lượng phôi thép, chủ yếu là từ Trung Quốc, Nga và U-crai-na. Trong đó, Trung Quốc là nguồn cung cấp 70% lượng phôi thép do giá luôn rẻ hơn các nước khác. Do lo ngại việc phát triển quá nóng, thời gian gần đây, Trung Quốc đã thay đổi chiến lược đối với ngành thép. Họ đánh thuế xuất khẩu phôi thép rất cao, đồng thời khuyến khích xuất khẩu lượng thép thành phẩm đang dư thừa.
Hiện nay giá phôi thép của Trung Quốc bán sang Việt Nam đã ở mức 500 – 520 USD/tấn, tăng 40 USD/tấn so với năm 2006. Với phôi này, các doanh nghiệp Việt Nam phải thêm chi phí từ 30 đến 50 USD/tấn để cán mới cho ra thép thành phẩm. Vì vậy, giá thép thành phẩm ở thị trường Việt Nam là khoảng 570-575 USD (9,2 triệu đồng/tấn thép). Mức giá này được cho là kỷ lục trong nhiều năm qua, khiến chi phí xây dựng đội lên khá cao. Trong khi đó, nếu các doanh nghiệp nhập thép thành phẩm từ Trung Quốc để bán ở thị trường Việt Nam thì giá chỉ là 8,6- 8,8 triệu đồng/ tấn thép. Như vậy là rẻ hơn thép sản xuất tại Việt Nam từ 400.000 đến 600.000 đồng/tấn.
Nay, nhập phôi thép về để cán thành thép thành phẩm giá thành cao, trong khi đặt doanh nghiệp Trung Quốc sản xuất thép cây rồi nhập về Việt Nam, gắn thương hiệu của mình để tiêu thụ, giá rẻ hơn, có tính cạnh tranh hơn.
Công ty Việt- Ý cho rằng đây là biện pháp hay để hạ giá thành xây dựng, vì quyền lợi của khách hàng mà chất lượng thì vẫn bảo đảm. Bởi họ đã thuê các công ty có uy tín của Trung Quốc sản xuất thép theo thiết kế kỹ thuật, bản quyền của Thép Việt – Ý, đáp ứng tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 1651-1985. Để đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất, Việt- Ý đã cử đội ngũ chuyên gia kỹ thuật giám sát toàn bộ quá trình sản xuất từ luyện phôi đến khi ra thành phẩm. Đối với số thép được sản xuất tại Trung Quốc nói trên, Việt- Ý sẽ ghi rõ xuất xứ trên từng Eteket và cấp chứng chỉ theo đúng pháp luật Việt Nam…
Sẽ phá sản sản xuất thép nội địa?
Sản xuất thép trong nước có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề nếu các doanh nghiệp nhập thép cây từ Trung Quốc về bán với thương hiệu của mình. Đó là ý kiến chung của giới sản xuất thép nội địa. Nhiều doanh nghiệp dọa nếu hành động của Việt- Ý không bị ngăn chặn thì họ cũng sẽ làm theo, nghĩa là nhập thép nước ngoài về, dán thương hiệu vào để hưởng chênh lệch.
Theo các chuyên gia, sở dĩ từ trước tới giờ, thép cây Trung Quốc có giá rẻ nhưng vẫn không thể thâm nhập được thị trường Việt Nam là do vấn đề thương hiệu. Người tiêu dùng Việt Nam vẫn tín nhiệm các thương hiệu thép cây trong nước, không quen dùng thép cây mang thương hiệu Trung Quốc với hình thức, mẫu mã và tiêu chuẩn kỹ thuật chưa phù hợp. Nay nếu thép cây Trung Quốc lại mang thương hiệu của các doanh nghiệp thép Việt Nam tràn vào thị trường Việt Nam, sẽ tác động tiêu cực tới sản xuất thép trong nước. Các doanh nghiệp thay vì sản xuất thép, sẽ chuyển sang buôn thép. Người lao động sẽ mất việc làm.
Khi đó thép cây Trung Quốc sẽ khống chế thị trường và chỉ cần phía Trung Quốc điều chỉnh về giá, thuế thép là toàn thị trường Việt Nam sẽ biến động theo.
Theo nhiều chuyên gia về kinh tế, thương mại, trong thời kỳ hội nhập, các điều luật cho phép một công ty A có thể đặt hàng công ty B ở nước ngoài chế tạo sản phẩm, rồi sau đó mới gắn thương hiệu của công ty A vào để tiêu thụ. Điều quan trọng là hàng hóa nói trên phải được ghi rõ xuất xứ từ quốc gia nào. Trong công văn gửi Hiệp hội Thép, Văn phòng luật sư Trần Vũ Hải (Công ty Luật Hà Nội) cũng nhận định, sản phẩm được sản xuất tại Trung Quốc, đưa vào Việt Nam và gắn nhãn hiệu thép Việt Nam là không trái thông lệ quốc tế và pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, hành vi của VIS là hành vi nhập khẩu đơn thuần khôngphải gia công, vì vậy phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và thuế với hàng nhập khẩu. Nếu trước đây, Nhà nước có ưu đãi về thuế, hoặc các ưu đãi khác để khuyến khích VIS (cũng như các doanh nghiệp thép nói chung) sản xuất thành phẩm trong nước thì trước tình hình trên, Hiệp hội Thép có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền rút các ưu đãi trên đối với VIS và áp dụng các quy định của pháp luật để yêu cầu doanh nghiệp này trả lại các ưu đãi đã hưởng.
Ông Phạm Chí Cường- Chủ tịch Hiệp hội Thép - lại cho rằng, hàng rào thuế hiện nay chưa đủ để ngăn chặn việc “đội lốt” của thép Việt- Ý. Điều cần thiết là cơ quan quản lý cần buộc Việt-Ý phải ghi rõ xuất xứ “Made in China” trên từng cây thép, để người tiêu dùng không bị nhầm lẫn. Hiện, công ty thép Việt- Ý cho biết, họ sẽ ghi rõ xuất xứ trên từng Eteket. “Như thế là chưa đủ, bởi có thể hiểu Eteket là một cuộn nhôm để bọc hàng trăm thanh thép, khi bỏ cuộn nhôm đó ra để bán lẻ, trộn lẫn với các loại thép khác thì có trời mới biết thép có xuất xứ từ đâu”. Ông Cường cũng cho rằng, trong một số trường hợp, nhà nước cần phải thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ ngành sản xuất thép nội địa.
Nên chấm dứt kiểu “ăn xổi”
Công suất sản xuất thép của các nhà máy trong nước lên đến hơn 6 triệu tấn/năm (trong khi nhu cầu tiêu thụ chỉ ở mức 3,4-3,5 triệu tấn/năm). Các nhà máy mỗi năm cần 4 triệu tấn phôi để sản xuất thép, thế nhưng lượng phôi nội địa tự sản xuất được chỉ khoảng 2,5 triệu tấn (khoảng 2 triệu tấn phôi công nghiệp và 500.000 tấn phôi do các làng nghề sản xuất). Thời gian qua, do được bảo hộ, các doanh nghiệp ngành thép đã lao vào đầu tư theo kiểu “đánh nhanh, thắng nhanh”, chỉ nhập phôi về để cán thành thép thành phẩm, mang lại lợi nhuận cao, thay vì đầu tư sản xuất phôi thép từ quặng để chủ động nguồn nguyên liệu sản xuất. Theo các chuyên gia, để xây dựng một nhà máy cán thép từ phôi công suất khoảng 200.000- 300.000 tấn/ năm chỉ mất khoảng 20 triệu USD, nhưng cũng cùng công suất trên nếu phải luyện từ quặng ra phôi rồi mới cán thành thép thành phẩm thì chi phí lên tới 100 triệu USD.
Do phụ thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu, chi phí sản xuất thép lại cao nên thép trong nước trở nên “khó thở” khi Nhà nước giảm dần bảo hộ và việc mở cửa thị trường thép theo lộ trình hội nhập. Hơn nữa, những quy định mới trong Luật Bảo vệ môi trường cũng đã hạn chế một lượng không nhỏ thép phế liệu nhập khẩu xưa nay vẫn được dùng làm nguyên liệu cho ngành thép.
Ông Phạm Chí Cường cho biết, nhận ra thời “ăn xổi” đã chấm dứt, hiện đã có 2-3 nhà máy sản xuất thép từ quặng có công suất khoảng 500.000 tấn/năm đã được đầu tư xây dựng. Và sắp tới, nhiều doanh nghiệp sẽ đầu tư xây dựng công nghệ luyện thép từ quặng. Nhưng đó là chuyện của tương lai. Còn hiện tại, rõ ràng, việc nhập thép thành phẩm của Trung Quốc, gắn thương hiệu Việt, mang về tiêu thụ tại thị trường nội địa đang là mối đe dọa lớn đối với thép “Made in Viet Nam” chính hiệu.
Hồ Quang Phương