QĐND - Lâu nay, việc khai thác, đánh bắt cá xa bờ của ngư dân phần lớn dựa vào kinh nghiệm chứ chưa có cơ sở khoa học, do đó, sản lượng khai thác thường bấp bênh. Hơn thế, tình trạng ngư dân khai thác thời gian dài khiến nguồn lợi thủy sản gần bờ ngày càng cạn kiệt. Ngư dân ra biển đánh chỗ này không có lại đi chỗ khác nên chi phí tốn kém, hiệu quả kinh tế thấp.
Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Đoàn Văn Bộ, Chủ nhiệm Bộ môn Quản lý biển, khoa Khí tượng - Thủy văn - Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) về đề tài Nghiên cứu, dự báo luồng cá ngừ đại dương nhằm khắc phục tình trạng này.
 |
Tiến sĩ Đoàn Văn Bộ
|
Tìm cá giúp ngư dân!
- Tiến sĩ (TS) có thể cho biết đôi nét về đề tài được coi là hữu dụng này?
- Khi được giao làm chủ nhiệm đề tài, chúng tôi đã phối hợp với Viện Nghiên cứu hải sản (Bộ NN&PTNT) để thực hiện. Đề tài của tôi chủ yếu tập trung về việc xây dựng quy trình công nghệ dự báo phục vụ khai thác hải sản xa bờ, đề tài này nằm trong nhóm đề tài cấp nhà nước thuộc chương trình nghiên cứu biển KC 09 (giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010). Mục tiêu đề tài là làm sao dự báo ngư trường giúp cho ngư dân khai thác, đánh bắt thủy sản ngày càng hiệu quả hơn, cụ thể ở đây là cá ngừ đại dương.
- Thời gian qua, khu vực nào ở vùng biển nước ta ngư dân thường xuyên khai thác, đánh bắt cá ngừ, thưa TS?
- Hoạt động khai thác cá xa bờ có 3 nghề chính: Câu vàng, lưới rê và lưới vây, chủ yếu là khai thác cá ngừ đại dương, có giá trị kinh tế cao. Hiện nay, sản phẩm cá ngừ của Việt Nam đã xuất khẩu sang hơn 60 nước trên thế giới. Nghề khai thác đánh bắt cá ngừ tập trung ở các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, khu vực khai thác chủ yếu ở vùng giữa Biển Đông.
- Có nghĩa là Việt Nam lần đầu tiên tổ chức nghiên cứu dự báo về ngư trường?
- Thực ra từ năm 1970, Viện Nghiên cứu hải sản đã được giao nhiệm vụ nghiên cứu dự báo về ngư trường, nhưng do thiếu kinh phí đề tài bị dừng lại. Năm 1986, Viện lại tiếp tục được giao nhiệm vụ nghiên cứu dự báo ngư trường và đã thu được kết quả nhất định, thường xuyên phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) và VTC16 (kênh nông nghiệp-phát triển nông thôn). Ngoài dự báo ngư trường, các đài còn phát kèm theo dự báo thời tiết biển. Tuy nhiên, kiểu dự báo này vẫn dựa trên phương pháp cổ điển, đó là dựa vào nhật ký khai thác của ngư dân, độ tin cậy thấp, vì ngư dân muốn giữ bí mật về ngư trường, do đó chất lượng dự báo chưa được như mong muốn.
Quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu dự báo luồng cá ngừ, chúng tôi cũng gặp khó khăn tương tự do độ tin cậy của nhật ký khai thác không chính xác. Hiện nay, ngoài đề tài nghiên cứu dự báo luồng cá ngừ của chúng tôi, ngành Thủy sản cũng đang triển khai đề tài nghiên cứu dự báo ngư trường chung để hỗ trợ ngư dân khai thác, đánh bắt trên biển.
Đề tài mà không được ứng dụng thì thật lãng phí!
- Cụ thể đề tài nghiên cứu như thế nào, thưa TS?
- Chúng tôi thực hiện quy trình nghiên cứu dự báo mối quan hệ giữa ngư trường, môi trường biển với các đặc trưng sinh học của từng loại thủy sản, đặc biệt là các loài cá ngừ, đây là hình thức nghiên cứu tiên tiến trên thế giới. Nhất là tập trung nghiên cứu, phân tích 26 yếu tố về môi trường sinh thái biển (tùy thuộc từng tháng trong năm), nhiệt độ nước, cấu trúc nhiệt, lớp đồng nhất… được cập nhật hằng ngày từ vệ tinh, rồi so sánh với đặc điểm sinh học của loài cá ngừ để phát hiện nơi nào chúng sẽ tập trung nhiều. Ví dụ, loài cá ngừ thích nghi với nhiệt độ nào, khu vực nào có nhiều thức ăn ưa thích, khu vực ấy chắc chắn tập trung nhiều cá ngừ. Đây là quy luật phổ biến trong sinh học, vấn đề lập được quan hệ bằng toán học giữa ngư trường-môi trường; dùng phương pháp chồng bản đồ (thế giới đã làm nhiều), xây dựng các quy trình, các phần mềm tiện ích để lập bản đồ số, sau đó dự báo ngư trường. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, cá ngừ đại dương không sống ở độ sâu dưới 15 độ C (độ sâu 300-400 mét), vùng nước thích hợp nhất đối với cá ngừ từ 20-24 độ C (độ sâu 100-200 mét). Cá chuồn, cá trích, mực, tôm, cá nục, phù du… là thức ăn chính của cá ngừ.
- Vậy, kết quả của đề tài nghiên cứu dự báo luồng cá ngừ tới đâu?
- Trong thời gian nghiên cứu, tháng nào chúng tôi cũng cử người đi thu thập số liệu đánh bắt của ngư dân để kiểm tra, đối chiếu với việc dự báo. Kết quả nghiên cứu dự báo của chúng tôi đúng được 60%, dự báo tốt đạt 70%, đây là kết quả khả quan. Vì là đề tài nghiên cứu nên chưa phát thông báo rộng rãi như bản tin dự báo thời tiết hiện nay.
- Quá trình thực hiện đề tài, TS đánh giá thế nào về nguồn cá ngừ trên ngư trường của Việt Nam?
- Theo nghiên cứu của chúng tôi, đến nay chúng ta mới khai thác, đánh bắt được sản lượng cá ngừ khoảng 10.000 tấn/năm, tức là mới chỉ đạt 50% khả năng khai thác nguồn lợi của ngư trường. Chúng ta phải khai thác khoảng 20.000-25.000 tấn/năm là phù hợp mà vẫn bảo đảm nguồn cá ngừ được bảo vệ bền vững. Không chỉ dự báo để khai thác cá ngừ hiệu quả hơn, mà còn góp phần tạo ra những nghề “ăn theo”, chẳng hạn: Nghề chụp mực, đánh bắt cá nục, cá trích… Nguồn thủy hải sản gần bờ đang dần cạn kiệt nhưng nguồn hải sản xa bờ vẫn còn rất phong phú mà chúng ta chưa khai thác được nhiều. Muốn vậy, chúng ta phải hỗ trợ ngư dân đầu tư khai thác, đánh bắt xa bờ.\
Chúng tôi mong muốn làm sao giúp cho ngư dân đánh bắt cá ngừ ngày càng hiệu quả cao, đem lại lợi ích kinh tế. Chứ nếu nghiên cứu xong mà không được thử nghiệm, để đưa vào ứng dụng phục vụ khai thác cho ngư dân thì thật là lãng phí.
- Xin cảm ơn TS!
Nguyễn Kiểm (thực hiện)