QĐND - Dự án Luật Thủ đô đã từng trình Quốc hội khóa XII, nhưng chưa được thông qua. Sau quá trình bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện, sáng qua (26-10), dự thảo Luật đã tiếp tục được trình tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII.
Vì sao dự thảo Luật đã không được Quốc hội khóa trước thông qua? Những nội dung gì được xây dựng, hoàn thiện trong dự thảo trình Quốc hội lần này? Đó là những nội dung mà nhiều bạn đọc Báo Quân đội nhân dân quan tâm.
 |
Luật Thủ đô ra đời sẽ góp phần xây dựng Thủ đô “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Trong ảnh: Khu đô thị mới trên đường Phạm Hùng (Hà Nội). Ảnh: Trọng Hải
|
Chưa thông qua vì còn nhiều ý kiến “vênh” nhau
Dự án Luật Thủ đô được bắt đầu chuẩn bị từ năm 2009, được Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XII tán thành trình Quốc hội xem xét. Tuy nhiên, dự án Luật đã không được thông qua.
Theo Tờ trình của Chính phủ do Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày tại phiên họp sáng qua (26-10), thì về mặt pháp lý, dự thảo Luật đã bảo đảm yêu cầu cao nhất là phải phù hợp với Hiến pháp. Nguyên tắc này đã được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ dự thảo và từng điều, khoản cụ thể. Thế nhưng, đối với yêu cầu tiên quyết (cũng là lý do cần ban hành Luật Thủ đô), là phải quy định một số cơ chế, chính sách khác hoặc chưa được quy định trong các luật hiện hành, thì còn có ý kiến khác nhau. Một số ý kiến cho rằng, dự thảo Luật chưa bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật. “Về mặt nội dung, cũng có một số ý kiến cho rằng dự thảo Luật còn các quy định chưa thể hiện rõ tính quy phạm. Một số cơ chế, chính sách còn mang tính nguyên tắc, chưa quy định cụ thể ngay trong Luật, do vậy tính khả thi chưa cao" - Bộ trưởng Hà Hùng Cường nhấn mạnh.
Đáng chú ý, có một số ý kiến băn khoăn là Nghị quyết số 15 của Bộ Chính trị - văn bản mà Luật tiếp tục thể chế hóa sau Pháp lệnh - chỉ có hiệu lực trong giai đoạn 2000-2010. Do vậy, trước hết cần tổng kết Nghị quyết này và trình Bộ Chính trị thông qua một Nghị quyết mới về Thủ đô, làm cơ sở để xây dựng trình Quốc hội thông qua Luật Thủ đô. Theo Bộ trưởng Hà Hùng Cường, sau khi được Quốc hội đưa vào Chương trình chính thức năm 2012, Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp tiếp tục chủ trì, phối hợp với UBND thành phố Hà Nội soạn thảo dự án Luật. Bộ Tư pháp đã thành lập lại Ban soạn thảo, Tổ biên tập và đã tổ chức việc soạn thảo dự án Luật theo trình tự, thủ tục soạn thảo một dự án luật mới.
Đề cập đến phạm vi điều chỉnh, bố cục và nội dung cơ bản của dự thảo, Bộ trưởng Hà Hùng Cường nhấn mạnh, dự thảo Luật Thủ đô gồm 4 chương với 28 điều, quy định vị trí, vai trò của Thủ đô; chính sách, trách nhiệm xây dựng, phát triển, quản lý và bảo vệ Thủ đô; chính sách, cơ chế cụ thể trong một số lĩnh vực cho Thủ đô.
Theo Báo cáo thẩm tra dự án Luật Thủ đô do Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý trình bày, thì để có thể khai thác tiềm năng, phát huy thế mạnh phát triển Thủ đô, cần quy định cho Thủ đô một số cơ chế, chính sách phù hợp. Các cơ chế, chính sách này hoặc là chưa được quy định trong luật hiện hành hoặc đã được quy định nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng, phát triển, quản lý và bảo vệ Thủ đô.
“Luật hóa” những vấn đề nóng hiện nay
Trao đổi với báo chí bên lề buổi họp Quốc hội sáng 26-10, ông Chu Sơn Hà (đoàn Hà Nội) cho rằng: Trong tổng số 4 chương, 28 điều của dự án Luật, hầu hết đã được chỉnh lý trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội khóa XII và các chuyên gia làm luật. “Tôi cho rằng, dự án Luật Thủ đô lần này cơ bản đã chỉnh lý, hoàn thiện theo đúng tinh thần Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị. Chúng ta cần xác định rõ, làm Luật Thủ đô cho cả nước chứ không phải làm một luật cho một tỉnh hay một thành phố trực thuộc Trung ương. Từ nhận thức đó, sẽ nâng cao ý thức của mọi công dân, đều có trách nhiệm chăm lo đến việc phát triển Thủ đô”.
Trong Chương I “Những quy định chung” của dự thảo Luật Thủ đô, gồm có 7 điều, quy định về phạm vi điều chỉnh; vị trí, vai trò của Thủ đô; trách nhiệm xây dựng, phát triển và bảo vệ Thủ đô; trách nhiệm của Thủ đô đối với cả nước; biểu tượng của Thủ đô; danh hiệu Công dân danh dự Thủ đô. Chương II “Chính sách xây dựng, phát triển và quản lý Thủ đô”, gồm 14 điều, quy định về các chính sách, cơ chế đặc thù trong các lĩnh vực như quy hoạch; không gian, kiến trúc, cảnh quan và trật tự xây dựng Thủ đô; bảo tồn và phát triển văn hóa; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; quản lý và bảo vệ môi trường; quản lý đất đai; phát triển và quản lý nhà ở; phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật... Chương III “Trách nhiệm xây dựng, phát triển và quản lý Thủ đô”, gồm 5 điều, quy định trách nhiệm của các cơ quan từ Trung ương, ban, ngành, địa phương, tổ chức và người dân Thủ đô trong việc xây dựng, phát triển, quản lý Thủ đô. Chương IV là “Điều khoản thi hành”.
Đáng chú ý, theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, tại khoản 2, Điều 9 của dự thảo Luật, quy định cụ thể một số biện pháp nhằm giảm số lượng dân cư tập trung quá đông ở nội thành, trong đó việc phải di dời một số cơ sở sản xuất công nghiệp, bệnh viện, cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp ra khỏi nội thành là bắt buộc. Trên thực tế, Nhà nước đã có kế hoạch di dời một số cơ sở này ra khỏi nội thành, tuy nhiên quá trình triển khai còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc nên tiến độ thực hiện rất chậm. Do vậy, để tạo cơ sở pháp lý ở tầm luật cho việc tổ chức thực hiện, cần phải quy định rõ trong Luật Thủ đô về lộ trình và chính sách hỗ trợ về tài chính, đất đai để tiến hành việc di dời.
Chính sách “Phát triển và quản lý nhà ở” của dự thảo Luật đã xác định tại Điều 16. Theo đó, trong các dự án phát triển nhà ở thương mại, khu đô thị mới ở Thủ đô phải dành tỷ lệ diện tích đất ở, nhà ở cao hơn so với quy định chung của cả nước để phát triển nhà ở xã hội; các khu chung cư cũ, nhà cũ xuống cấp nguy hiểm phải được cải tạo, xây dựng lại; tạo lập khu đô thị hiện đại theo tiêu chí bảo đảm mật đô dân cư theo quy hoạch, giảm mật độ xây dựng, tăng hiệu quả sử dụng đất. Bên cạnh đó, Điều 16 giao Hội đồng nhân dân ban hành biện pháp để thực hiện quy định này. So với dự thảo Luật đã trình Quốc hội khóa XII, thì dự thảo Luật mới bổ sung hai tiêu chí. Thứ nhất, tiêu chí xác định nhà cũ, chung cư cũ là “xuống cấp nguy hiểm” để làm căn cứ cho việc cải tạo, xây dựng lại. Thứ hai, tiêu chí nhằm điều hòa số lượng dân cư tại các khu chung cư cũ sau khi được cải tạo là phải bảo đảm mật độ dân cư theo quy hoạch.
Một vấn đề “nóng” khác cũng được “Luật hóa” trong dự thảo Luật Thủ đô trình Quốc hội lần này. Đó là nhằm góp phần hạn chế tình trạng tắc nghẽn giao thông kéo dài ở nội thành trong thời gian qua, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do sử dụng quá nhiều phương tiện giao thông cá nhân, Điều 18 của dự thảo Luật giao Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội ban hành quy định ưu tiên phát triển hệ thống vận tải hành khách công cộng phương thức vận tải khối lượng lớn; khuyến khích đầu tư xây dựng, khai thác bến xe, trạm dừng nghỉ, trạm kiểm tra tải trọng xe, bãi đỗ xe ô tô và các phương tiện cơ giới khác; áp dụng công nghệ cao trong quản lý, điều hành hệ thống giao thông vận tải.
Tình trạng tăng dân số cơ học quá nhanh ở nội thành trong những năm gần đây là một trong những vấn đề nan giải nhất của Hà Nội do cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội hiện nay không thể đáp ứng được. Nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn này, dự thảo Luật Thủ đô đưa ra một số quy định chặt chẽ hơn so với Luật cư trú hiện hành.
Dự án Luật Thủ đô, sau khi được thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện tại kỳ họp lần này, dự kiến sẽ được thông qua vào ngày 21-11 tới.
Trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân về vấn đề hạn chế việc người dân di cư tự do vào nội thành, đại biểu Dương Trung Quốc (đoàn Đồng Nai) cho rằng: Chúng ta giải quyết bằng cách hút người ra quan trọng hơn là chặn họ vào nội thành. Những giải pháp tình huống có thể phải chấp nhận trong một thời kỳ nào đó vì quá bức bách, nhất là giải quyết hạ tầng. Nhưng quan trọng nhất phải có cơ chế để hút người ra, phân bố dân cư hợp lý và phát huy hiệu quả, như vậy việc mở rộng Hà Nội mới có giá trị. Luật này chính là thử thách để khẳng định chủ trương mở rộng Hà Nội là đúng. Nếu thất bại thì là chủ trương sai.
Ngay chính sách quản lý dân nhập cư của Hà Nội những năm gần đây đã có áp dụng, nhưng số dân nhập cư rất đông, điều đó cũng phản ánh điều tự nhiên là “đất lành chim đậu”. Cuộc sống mưu sinh, yếu tố lợi ích là cao nhất chứ không phải những yếu tố thuần túy khác”.
|
Lê Thiết Hùng