Cuộc đối đầu Đông-Tây kết thúc đã giúp khai thông quan hệ ngoại giao và thiết lập những quan hệ chéo giữa các quốc gia một thời từng ở hai bên "chiến tuyến". Tuy nhiên, Chiến tranh Lạnh vẫn để lại tàn dư là quan hệ “bất bình thường” của Mỹ với một số quốc gia, trong đó có Cu-ba. Nếu quay ngược lại thời gian vài chục năm trước, ít người dám nghĩ tới hình ảnh người đứng đầu Nhà Trắng và Chủ tịch Cu-ba cùng sải bước tại thủ đô La Ha-ba-na, chứ đừng bàn tới việc họ ngồi trao đổi, hội đàm tại Cung Cách mạng. Thế mà giờ đây đó là điều thế giới đang chứng kiến. Sau gần 90 năm, một Tổng thống Mỹ thăm Cu-ba với mục đích thúc đẩy hợp tác trên lĩnh vực thương mại để đẩy nhanh tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Phải thừa nhận rằng, ông B.Ô-ba-ma theo đuổi một chính sách đối ngoại rất khác so với những vị tổng thống trước đây của Mỹ. Thay vì tiếp tục “ngoảnh mặt” và lạnh nhạt với quốc gia láng giềng, ông chủ Nhà Trắng nhận thấy Mỹ cần thúc đẩy một cách tiếp cận khác phù hợp với xu thế mới của thời đại. Thời gian qua, những động thái thiện chí liên tục được phía Mỹ đưa ra. Thậm chí, để có được chuyến thăm này, Tổng thống B.Ô-ba-ma đã phải “chiến đấu” với một quốc hội do phe Cộng hòa (vốn luôn phản đối việc dỡ bỏ lệnh cấm vận Cu-ba) chiếm đa số, chỉ để đạt được những chính sách nhằm gỡ bỏ những nghi kỵ với quốc đảo Ca-ri-bê. Hơn ai hết, ông chủ Nhà Trắng hiểu rằng, cải thiện quan hệ với Cu-ba, ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế, còn đồng nghĩa với việc giúp Mỹ lấy lại vị thế ở Mỹ La-tinh, khu vực sân sau vốn đang bị không ít cường quốc dòm ngó. Đó là chưa kể việc sang thăm Cu-ba vào thời điểm này có thể nói là một nước cờ ghi điểm đặc biệt quan trọng đối với chiến dịch tranh cử Tổng thống Mỹ của đảng Dân chủ. Ai cũng biết, lượng cử tri Mỹ có nguồn gốc Cu-ba và các nước Mỹ La-tinh là không nhỏ. Chuyến thăm của ông B.Ô-ba-ma chắc chắn ít nhiều sẽ giúp số cử tri này thay đổi quan điểm, thái độ đối với đảng Dân chủ.
Hai quốc gia láng giềng cách nhau chỉ vỏn vẹn 90 hải lý. Nhưng để vượt qua chặng đường đó sang tới “đảo quốc Ca-ri-bê”, nước Mỹ phải mất 88 năm. Hẳn đó không phải do khoảng cách về địa lý, mà chính là vì khác biệt tư duy. Vì vậy vượt qua nó đồng nghĩa với việc nhà lãnh đạo Mỹ phải vượt qua lối tư duy đầy định kiến, mang nặng tâm lý của thời Chiến tranh Lạnh, thù địch với một nước Cu-ba xã hội chủ nghĩa. Ở phía ngược lại, các nhà lãnh đạo Cu-ba, cùng sự kiên trì, quyết tâm và lòng quả cảm, cũng phải vượt qua vô số rào cản khó khăn, cả chủ quan lẫn khách quan, để có thể chào đón chuyến thăm lịch sử này.
Phải nói rằng, quan hệ Mỹ - Cu-ba đang có chuyển biến rất nhanh. Hơn nửa thế kỷ đối nghịch đang dần dần được xóa nhòa bởi những hành động tích cực đến từ cả hai phía. Không ít người cho rằng, sự thay đổi nhanh chóng trong mối quan hệ Mỹ - Cu-ba xuất phát từ việc hai vị lãnh đạo đều muốn kết thúc nhanh tiến trình bình thường hóa như một di sản để lại cho người kế nhiệm. Nhưng nói một cách chính xác hơn, sự thay đổi đó là tất yếu trong xu thế phát triển chung của thế giới. Chung sống hòa bình để hợp tác và phát triển từ lâu đã trở thành một quy luật không thể đảo ngược trong quan hệ giữa các quốc gia trong thế giới ngày nay.
Chính những lợi ích tiềm ẩn đang tạo ra lực đẩy mạnh mẽ cho quan hệ Mỹ - Cu-ba. Và thực tế cho thấy khi chấp nhận và tạm gác lại những khác biệt, hai quốc gia láng giềng chỉ cách nhau 150km đường biển này có rất nhiều lĩnh vực tiềm năng để hợp tác. Hơn nữa, cải thiện quan hệ với Cu-ba, Mỹ còn có thêm một thị trường mới. Một nghiên cứu mới đây của hãng đánh giá tín dụng Tây Ban Nha cho biết, nếu xóa bỏ chính sách cấm vận chống Cu-ba, Mỹ sẽ là nước được hưởng lợi thương mại nhiều nhất với đảo quốc này, với giá trị xuất khẩu sang Cu-ba có thể lên tới 1 tỷ USD/năm. Điều đó giải thích tại sao chính quyền Mỹ lại muốn đẩy nhanh quá trình xây dựng quan hệ thương mại và ngoại giao với Cu-ba trước khi ông Ô-ba-ma hết nhiệm kỳ. Về phía Cu-ba, ít nhất khi khôi phục quan hệ với Mỹ, đảo quốc Ca-ri-bê sẽ có cơ hội đón dòng đầu tư mạnh mẽ từ nước láng giềng, giúp thúc đẩy việc phát triển kinh tế, cải thiện đời sống người dân.
Như thế, nhìn dưới bất kỳ góc độ nào, những chuyển biến từ hai nước thời gian vừa qua, mà kết quả tốt đẹp nhất là chuyến thăm của Tổng thống B.Ô-ba-ma tới Cu-ba đang và sẽ đem lại lợi ích nhiều mặt cho cả Mỹ lẫn Cu-ba.
Tuy nhiên, phía trước quan hệ Mỹ - Cu-ba vẫn còn không ít vật cản mà lớn nhất là lệnh cấm vận mà Mỹ áp đặt với Cu-ba từ năm 1960 của thế kỷ trước và vấn đề liên quan tới căn cứ quân sự ở Vịnh Oan-ta-na-mô. Ngoài ra, giữa hai nước hiện vẫn còn những khác biệt lớn trong các lĩnh vực như hệ thống chính trị, dân chủ, nhân quyền, áp dụng và diễn giải luật pháp quốc tế. Ngay cả trong chuyến thăm lịch sử lần này, Tổng thống Ô-ba-ma được cho là cũng sẽ đề cập đến vấn đề nhân quyền mà Mỹ cho là “còn vấn đề” ở Cu-ba. Trong khi đó, Cu-ba khẳng định sẽ không chấp nhận những đòi hỏi về vấn đề dân chủ và mở cửa kinh tế mà Mỹ nhiều lần đưa ra. Như thế, dù cả hai bên đều coi chuyến thăm của Tổng thống B.Ô-ba-ma là cơ hội để “giảng hòa”, “định hình tương lai” quan hệ giữa hai nước, nhưng hòa giải hoàn toàn với nhau không phải là điều dễ dàng ngay lập tức sau những năm dài đối địch. Ngay cả những người lạc quan nhất cũng không ảo tưởng về việc những khác biệt lớn giữa hai bên sẽ ngay lập tức được xóa bỏ.
Quá khứ nặng nề là thử thách không dễ vượt qua trong một sớm một chiều. Nhưng vì những lợi ích có thể đạt được về kinh tế và địa-chính trị, câu chuyện bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Cu-ba chắc sẽ đến đích. Và chuyến thăm của Tổng thống B.Ô-ba-ma sẽ góp phần thực hiện sứ mệnh lịch sử đó.
NGỌC THƯ