Kích cầu đầu tư và tiêu dùng là một trong các nhóm giải pháp đã được Chính phủ đặc biệt nhấn mạnh nhằm mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu và bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, vấn đề đã và đang đặt ra là làm thế nào để việc kích cầu đến đúng địa chỉ cần thiết?
Kích cầu là một khái niệm khoa học chỉ những biện pháp mà Nhà nước chi tiền mặt để tăng sức mua hàng hóa và tiêu dùng nhằm kích thích sản xuất phát triển. Kích cầu đầu tư và tiêu dùng là giải pháp mà hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đang áp dụng để đối phó với khủng hoảng kinh tế. Các gói kích cầu mang ý nghĩa kích thích, xúc tác như trong hóa học để làm thay đổi cục diện kinh tế. Chẳng hạn như Mỹ đã công bố có thể chi tới 819 tỉ đô-la trong vòng hai năm (2009 và 2010), chủ yếu để đầu tư và xây dựng cầu đường và các công trình công cộng, giảm thuế và trợ cấp người nghèo. Đức công bố chi 49,25 tỉ ơ-rô kích cầu, trong đó 15 tỉ được dùng bảo đảm tín dụng, 17,33 tỉ xây dựng đường giao thông liên bang, trường học, bệnh viện, các cơ sở công cộng địa phương; 1,5 tỉ thưởng cho những người hủy xe hơi chín năm tuổi, mua xe mới loại thỏa mãn quy phạm khí thải Euro-4, mức 2.500 ơ-rô/xe…
 |
|
Tư vấn cho các khách hàng đến vay vốn được hỗ trợ lãi suất của Chính phủ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Ảnh: Kiều Linh |
Ở Việt Nam, Thường trực Chính phủ đã thông qua phương án sử dụng khoản kích cầu đầu tư 17.000 tỉ đồng trong năm 2009 và khoản tiền này được sử dụng chủ yếu bằng hình thức bù lãi suất khi doanh nghiệp vay vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Thời điểm thực hiện bắt đầu từ tháng 2 năm 2009. Như vậy, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất-kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế đều được thụ hưởng trực tiếp khoản kích cầu 17.000 tỉ đồng của Chính phủ, thông qua việc Chính phủ bù lãi suất 4% khi vay vốn lưu động ở các ngân hàng thương mại Việt Nam. Qua đó hỗ trợ doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng với chi phí hợp lý, tạo động lực cho hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng mở rộng hoạt động huy động vốn và cung ứng vốn cho nền kinh tế. Đây là giải pháp đúng đắn của Chính phủ đã được cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam hoan nghênh và đón nhận. Các ngân hàng thương mại cũng đã tích cực vào cuộc. Theo tổng hợp của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chỉ sau 12 ngày triển khai, 5 ngân hàng thương mại của Nhà nước đã cho vay hỗ trợ 4% lãi suất được khoảng 31 nghìn tỉ đồng, chủ yếu cho vay vào lĩnh vực sản xuất và chế biến nông-lâm-thủy sản.
Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều ngân hàng thương mại, để hỗ trợ lãi suất trong gói kích cầu 17 nghìn tỉ đồng của Chính phủ, cần tới nguồn vốn gần 650 nghìn tỉ đồng, bằng khoảng 50% dư nợ của nền kinh tế, do đó cần được kéo dài thời gian cho vay vàmở rộng đối tượng hỗ trợ lãi suất, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của ngân hàng và doanh nghiệp trong việc triển khai thực hiện. Mặt khác, cần phải có cơ chế giám sát chặt chẽ để sử dụng đúng mục đích nguồn vốn được hỗ trợ lãi suất. Trên thực tế, rất có thể một doanh nghiệp vay tiền được hưởng sự hỗ trợ lãi suất, ngay sau đó bán hàng lấy tiền rồi cho người khác vay tiền để hưởng lãi suất chênh lệch. Việc thẩm định mục đích sử dụng vốn của khách hàng cũng đang là vấn đề nan giải. Bởi nếu làm chậm, các ngân hàng sẽ bị doanh nghiệp kêu ca, phàn nàn, còn nếu làm không cẩn thận có thể khoản kích cầu của Chính phủ đến sai địa chỉ.
Cùng với việc hỗ trợ lãi suất, để kích cầu cho nền kinh tế, trong lúc này rất cần có thêm các giải pháp hỗ trợ, chẳng hạn như cho phép doanh nghiệp phát hành trái phiếu, bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mục tiêu của chính sách kích cầu là chống suy thoái, duy trì tăng trưởng bền vững và tạo việc làm cho xã hội. Muốn vậy, theo tôi, các dự án được ưu tiên hưởng phần kích cầu của Chính phủ phải giúp tháo gỡ nhanh các nút thắt tăng trưởng gây ách tắc, ví dụ như xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ thống điện. Hoặc là những dự án thu hút nhiều đầu vào, tạo nhiều việc làm. Hoặc là tháo gỡ khó khăn cho xuất khẩu. Mặt khác cũng cần phải tránh kích cầu thông qua cơ chế “xin - cho”, gây khó khăn thêm cho doanh nghiệp.
Về mặt kích cầu tiêu dùng, nếu không cẩn trọng thì rất có thể đối tượng được ưu đãi “kích cầu” chủ yếu sẽ chính là hàng Trung Quốc. Chính vì vậy việc khởi động lại phong trào người Việt Nam dùng hàng Việt Nam là cần thiết, các doanh nghiệp thương mại không nên “bỏ trống sân nhà” lúc này.
NGHIÊM THỊ THƯƠNG (Khoa Ngân hàng-Bảo hiểm, Học viện Tài chính)