Trên thế giới, việc phát triển xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT) đã gần như tạm ngừng lại, chủ yếu là do chi phí cao. Vì vậy, hầu hết các nước đang giảm số lượng các đơn vị xe tăng và tập trung vào nâng cấp các xe tăng hiện có trong trang bị.
Tuy nhiên, ở châu Á, một số quốc gia vẫn tiếp tục phát triển và đưa trang bị các loại xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ mới như một phần trong kế hoạch tự túc trong công nghiệp quốc phòng của mình. Một số quốc gia trước đây chưa từng sử dụng xe tăng trong biên chế quân đội như Malaixia cũng đã bắt đầu phát triển và trang bị xe tăng sản xuất nội địa.
Hầu hết các quốc gia châu Á đều đã mua xe tăng chiến đấu chủ lực từ các quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng phát triển. Tuy nhiên, vì những lý do về chính sách quốc phòng và yêu cầu phát triển công nghiệp quốc phòng nội địa, các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Pakixtan và Hàn Quốc đã lên kế hoạch nghiên cứu và phát triển hệ thống xe tăng chiến đấu chủ lực nội địa.
Quá trình nghiên cứu và phát triển các xe tăng đấu chủ lực là một quá trình tốn nhiều thời gian và tốn kém kể cả với các quốc gia có cơ sở hạ tầng rất tốt trong phát triển quốc phòng tiên tiến tại châu Á. Vì thế, hầu hết các xe tăng chiến đấu chủ lực được phát triển gần đây của một số quốc gia châu Á đã sử dụng các phân hệ của nước ngoài, đặc biệt là các hệ thống động lực (động cơ, hệ thống làm mát và hộp số) và các hệ thống vũ khí (đặc biệt là các thiết bị quang - điện tử và điều khiển hoả lực).
Tuổi thọ ít nhất của một xe tăng chiến đấu chủ lực điển hình thường là 20 năm, nhưng để xe tăng tiếp tục là một hệ thống vũ khí hiệu quả thì phải có những đầu tư thường xuyên. Thông thường, trang bị một xe tăng chiến đấu chủ lực mới chỉ là phần đầu tiên của một quá trình, bao gồm cả việc mua sắm các xe chi viện, như xe bọc thép cứu kéo (ARV), xe công trình bọc thép (AEV), xe bọc thép bắc cầu (AVLB), và xe vận tải hạng nặng. Xe chiến đấu bộ binh (IFV) được trang bị đầy đủ và các hệ thống pháo tự hành cũng có thể cần phải mua sắm để hình thành một nhóm tác chiến binh chủng hợp thành thích hợp.
Cùng với việc nghiên cứu và chế tạo mới các xe tăng chiến đấu chủ lực, các trang bị huấn luyện, sân bãi thử nghiệm cũng cần được mở rộng. Việc này cũng gây tốn kém không nhỏ với các quốc gia đang mong muốn sở hữu xe tăng chủ chiến của riêng mình. Chưa kể tới một số quốc gia có diện tích hẹp như Singapore. Họ đã buộc phải chọn giải pháp gửi một số đơn vị xe tăng của mình đi huấn luyện ở nước ngoài.
Dưới đây là một bức tranh toàn cảnh về tình hình nghiên cứu, chế tạo và đưa vào trang bị các xe tăng chiến đấu chủ lực tại một số quốc gia châu Á:
Trung Quốc
Ước tính Trung Quốc có tổng số từ 7.000 đến 8.000 xe tăng chiến đấu chủ lực. Thiết kế đầu tiên của Trung Quốc được đưa vào sản xuất trong những năm 1950 - xe tăng chiến đấu chủ lực Type 59 của Tập đoàn Công nghiệp Hoa Bắc (NORINCO) được phát triển dựa trên xe tăng chiến đấu chủ lực T-54 của Nga và hiện nay vẫn còn trong trang bị, trong đó nhiều xe đã được nâng cấp sử dụng pháo nòng rãnh 105 mm của NATO và hệ thống điều khiển hoả lực mới. Trung Quốc đưa ra một loạt những nâng cấp đối với Type 59, sử dụng đạn có điều khiển bằng lade 105 mm - loại đạn có thể bắn từ bất cứ loại xe tăng chiến đấu chủ lực nào được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực.
 |
Xe tăng Type 99 của Trung Quốc. Ảnh: Defence Talk
|
Tiếp theo Type 59, là xe tăng Type 69, Type 79 và Type 80. Xe tăng Type 80 có một khung gầm mới và tháp pháo đúc được trang bị pháo nòng rãnh 105 mm. Theo ước tính Trung Quốc đã sản xuất khoảng 1.000 xe tăng Type 80, trước khi thiết kế thành công Type 85, tiên tiến hơn, trang bị pháo nòng trơn 125 mm, hệ thống nạp đạn tự động - hệ thống đã làm giảm kíp xe xuống còn 3 người. Type 85 cũng đã được hợp tác sản xuất tại Pakixtan và vẫn đang được Trung Quốc tiếp thị.
Tập đoàn NORINCO cũng đã phát triển xe tăng chiến đấu chủ lực MBT-2000 (hay Type 90) nhưng loại xe này có xu hướng giành cho xuất khẩu và chưa bao giờ đưa vào trang bị cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Type 90 có khối lượng chiến đấu 46 tấn và là phiên bản mới nhất sử dụng động cơ diezen Kharkov 6TD-2 của Ucraina.
Type 98 sử dụng khung gầm xe tăng chiến đấu chủ lực T-72 của Nga và một tháp pháo phái sinh từ Type 85, giữ nguyên pháo nòng trơn 125 mm. Type 98 có hệ thống giáp bảo vệ tiên tiến hơn và thiết bị gây nhiễu quang học bằng lade được gắn trên nóc.
Được biết xe tăng chiến đấu chủ lực Type 98 được sản xuất với số lượng nhỏ cho đến khi chuyển sang sản xuất Type 99, phiên bản sản xuất chính hiện nay. Type 99 tương tự như Type 98, nhưng tháp pháo có vỏ giáp thụ động giống như của xe tăng chiến đấu chủ lực Leopard 2A5 và 2A6 của Đức. Hệ thống điều khiển hoả lực bằng máy tính cho pháo nòng trơn 125 mm được lắp cho Type 98 và Type 99, bao gồm một kính ngắm hồng ngoại của xạ thủ với kính đo xa lade được tích hợp; nó có thể bắn đạn có điều khiển bằng lade với cự ly lớn nhất 5.000 m.
Trung Quốc đã xuất khẩu một số lượng lớn xe tăng chiến đấu chủ lực cho các nước Trung Đông nhưng trong những năm gần đây việc xuất khẩu đã bị gián đoạn.
Ấn Độ
Là nước thành công trong việc sản xuất Mk1 Vickers, Ấn Độ đã bắt đầu một chương trình phát triển trong nước xe tăng chiến đấu chủ lực Arjun đầy tham vọng vào năm 1974. Được phát triển bởi Cơ quan Nghiên cứu và Phát triển Xe chiến đấu (CVRDE), xe tăng chiến đấu chủ lực Arjun đã gặp phải một số trục trặc nên vẫn chưa đưa vào trang bị số lượng lớn.
 |
Xe tăng Arijun của Ấn Độ. Ảnh: military-today.com
|
Để lấp khoảng trống cho Arjun, từ năm 1986, Ấn Độ đã sản xuất xe tăng chiến đấu chủ lực T-72M1 của Nga dưới cái tên Ajeya, hình thành nên một đội xe xấp xỉ khoảng 1.900 chiếc. Gần đây, Ấn Độ đã mua 310 chiếc xe tăng chiến đấu chủ lực mới nhất của Nga T-90S, và hơn 1.000 chiếc nữa đang được sản xuất ở Ấn Độ dưới cái tên là Bhishma.
Một sự lấp chỗ trống khác nữa, Cơ quan Nghiên cứu và Phát triển Xe chiến đấu đã đề xuất loại xe tăng chiến đấu chủ lực Tank Ex, kết hợp giữa khung gầm của T-72M1 với tháp pháo hoàn chỉnh của Arjun. Tuy nhiên, loại xe này vẫn trong giai đoạn sản xuất mẫu đầu tiên.
Cơ quan Nghiên cứu và Phát triển Xe chiến đấu đã đưa ra đề xuất là sử dụng khung gầm của xe Arjun cho hệ thống pháo tự hành tương lai của Ấn Độ, để chia xẻ chi phí và tăng sự tính tương thích.
Nhật Bản
Nhật Bản đã tự thiết kế, phát triển và sản xuất xe tăng chiến đấu chủ lực từ những năm 1950. Trang bị xe tăng hiện tại của Nhật Bản gồm có Type 74, được lắp pháo nòng rãnh 105 mm và Type 90 được lắp pháo nòng trơn 120 mm với hệ thống nạp đạn tự động.
Nhà thầu chủ yếu đối với các loại xe tăng chiến đấu chủ lực và các loại xe chiến đấu bộ binh khác của Nhật Bản là Tập đoàn công nghiệp nặng Mitsubishi (MHI).
Từ giữa những năm 1990, Viện Nghiên cứu và Phát triển của Lục quân Nhật Bản, MHI và rất nhiều công ty khác của Nhật Bản đã phát triển và sản xuất một loại xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ mới được gọi là TK-X. Xe tăng TK-X, lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng vào đầu năm 2008. Vào thời gian này, 4 mẫu đầu tiên đã được sản xuất; một loạt gồm 3 xe khác cũng đang trong quá trình sản xuất. Người ta mong đợi việc phát triển này sẽ được hoàn thành vào năm tài chính 2009.
 |
Xe tăng Type 90 của Nhật Bản. Ảnh: wikimedia.org
|
Giống như Type 90, xe tăng chiến đấu chủ lực TK-X mới có một kíp xe 3 người, được trang bị pháo nòng trơn 120 mm, hệ thống nạp đạn tự động. TK-X được trang bị một hệ thống điều khiển hoả lực bằng máy tính tiên tiến gồm các kính ngắm được lắp cố định cho chỉ huy và xạ thủ; chỉ huy có một kính ngắm hồng ngoại và kính ngắm ngày có khả năng bao quát toàn cảnh các mục tiêu giao chiến. Một súng máy đồng trục 7,62 mm và một súng máy cỡ nòng 12,7 mm được gắn trên nóc. Trong khi Type 90 có khối lượng chiến đấu là 50 tấn, còn khối lượng của TK-X chỉ có 40 tấn
(hoặc tăng lên 44 tấn khi lắp giáp treo), vì thế rất dễ dàng để triển khai tới các vùng khác nhau của Nhật Bản, còn Type 90 nặng hơn nên không thể.
Tháp pháo được trang bị các máy đo lade kết nối với các hệ thống phóng lựu; các thiết bị khác của hệ thống phòng hộ sẽ được lắp đặt trong tương lai. Xe tăng chiến đấu chủ lực TK-X mới cũng có một hệ thống giảm sóc thủy lực, hệ thống này cho phép cho lái xe có thể điều chỉnh giảm sóc lên/xuống, sang phải/ trái và trước/ sau, theo các điều kiện của địa hình.
Đăng Minh tổng hợp (theo Jane's International Defense Review)
(còn nữa)