Năm 1938, cậu thanh niên Nguyễn Đôn ở xã Tịnh Bình (huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi) được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó bị Pháp bắt nhốt lao tù rồi bị đày lên căng an trí Ba Tơ. Tại đây, ông cùng với những đồng chí trung kiên lãnh đạo Khởi nghĩa Ba Tơ (tháng 3-1945) và sau đó lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Ngãi (tháng 8-1945). Ở nơi bị giam lỏng, người thanh niên mới 24 tuổi này đã sáng tạo in tài liệu cho Đảng và bằng mọi cách để qua mắt địch. Anh sắm chiếc thuyền con trên sông Liên, tự mày mò in hàng trăm trang tài liệu kêu gọi yêu nước. Người cộng sản gầy yếu vì đói ăn và bệnh tật ấy đã nhìn xa trông rộng, thấy được sức mạnh đoàn kết của toàn dân, lặn lội lên núi Cao Muôn cắt máu ăn thề với người Thượng, thuyết phục đồng bào nơi đây ủng hộ Việt Minh xây dựng Ba Tơ thành khu căn cứ của đội du kích và là phên giậu vững vàng phía tây Quảng Ngãi.
Trung tướng Nguyễn Đôn (bên trái) và đồng đội tại Lễ kỷ niệm 65 năm Khởi nghĩa Ba Tơ và đón danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân của Đội du kích Ba Tơ, năm 2010.
Sau này khi có dịp suy ngẫm, ông viết hồi ký “Bình minh Ba Tơ” không nói nhiều về mình mà ca ngợi sức mạnh nhân dân đã làm nên cuộc khởi nghĩa kỳ diệu. Ông viết trong hồi ký về những ngày đầu vào Đảng (năm 1938) với niềm khát khao bỏng cháy: “Tôi thầm ước, sau này Đảng chủ trương đấu tranh vũ trang, dù có phải hy sinh xương máu… ta cũng giành được một mảnh đất, ở đấy con người được sống trong độc lập, hít thở không khí tự do và yêu thương nhau trong tình đồng chí, nghĩa đồng bào…”. Tình yêu cho dân, cho nước trong ông luôn sừng sững như ngọn núi Cao Muôn giữa núi rừng Ba Tơ lịch sử. Đôi chân đã yếu, từ lâu không đi xa được, vậy mà đầu năm 2015, ông đã làm mọi người ngạc nhiên khi về dự Lễ kỷ niệm 70 năm Khởi nghĩa Ba Tơ. Trước đó, năm 2010, ông cũng đã về dự lễ kỷ niệm 65 năm ngày khởi nghĩa và đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân của Đội du kích Ba Tơ, thăm lại những nơi từng in dấu chân mình và đồng chí ngày đầu hoạt động cách mạng.
Trung tướng Nguyễn Đôn lúc nào cũng toát lên sự giản dị, gần gũi, chí tình, chí nghĩa. Ông có sức thu hút rất lớn với người xung quanh. Nhờ chan hòa với nhân dân, trong chiến tranh, ông được đồng bào bày cho bài thuốc gia truyền và kiên trì sử dụng, giữ được sức khỏe dồi dào, gương mặt luôn hồng hào và trí tuệ mẫn tiệp. Ông thường xuyên đi bộ, hãn hữu lắm mới yêu cầu xe đưa đón. Có khi ông chống ba-toong đến thăm Bộ tư lệnh Quân khu 5. Cách đây một năm, ông vẫn giữ thói quen chống gậy ra hành lang ngồi đọc sách, báo, các tài liệu của Đảng để biết tình hình đất nước như một thói quen không thể thiếu. Khi Bộ tư lệnh Quân khu 5 đến thăm hỏi, ông luôn bảo con cháu chuẩn bị cho ông quần áo chu tất, thường là đại lễ. Đặc biệt, năm 2012, khi ông đón nhận danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân, bao nhiêu đoàn đến chúc mừng, ông đều ngồi ở phòng khách tiếp đón ân cần, dù ngồi lâu là việc không hề dễ dàng với tuổi già.
Đại tá Nguyễn Kim Hồ, nguyên Chủ nhiệm Phòng không Quân khu 5, là cháu của ông, kể lại: Những năm ông thôi chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng để làm Trưởng ban Công tác miền Tây của Trung ương Đảng, người ta thấy đồng chí Cay-xỏn Phôm-xi-hản, nguyên Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào coi ông như người thân thiết, thường xuyên đến thăm ông ở căn nhà 30 Lý Nam Đế, Hà Nội. Chuyện ông được Bộ Quốc phòng tặng chiếc xe Von-ga - một tài sản rất lớn lúc đó - khi rời quân ngũ nhưng đã tặng lại cho Quân khu 5 vẫn được nhiều người nhắc tới. Gia đình ông sống giản dị trong căn nhà đã cũ ở kiệt 32 Phan Đình Phùng, TP Đà Nẵng. Có nhiều người không tin rằng, một vị tướng trường chinh qua các cuộc kháng chiến lại có cơ ngơi bình thường như thế. Nhưng ông tự cho rằng, như vậy là đủ và thường nói với con cháu không bao giờ đòi hỏi gì hơn. Ông luôn dành nhiều thời gian thăm đồng đội, thăm các miền quê đã cưu mang mình trong chiến tranh. Ông đau đáu việc tìm hài cốt liệt sĩ ở nghĩa trang đầu tiên của Liên khu 5 tại Quy Nhơn, Bình Định năm 1955 mà ông trực tiếp chỉ đạo xây dựng, khánh thành trên cương vị Tham mưu trưởng Liên khu. Năm 2010, ông cùng các cựu chiến binh gửi thư cho Quân khu 5, bày tỏ nỗi trăn trở không biết đồng đội của mình đã được di dời hết hay còn ẩn khuất đâu đó dưới lớp đất sâu và muốn có một tượng đài ghi danh nơi đây. Từ lá thư của ông, đã có một cuộc họp quan trọng giữa Bộ tư lệnh Quân khu 5 với UBND tỉnh Bình Định để bàn hướng giải quyết. Những ai ở bên cùng làm việc khi ông trên cương vị Bí thư Liên khu ủy 5, Tư lệnh Quân khu 5 (năm 1961-1967) hay về Bộ Quốc phòng sau này đều hết mực kính trọng, xem ông là tấm gương sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước và đạo đức cao đẹp của người cộng sản. “Lão tướng” Nguyễn Đôn vẫn là biểu tượng kỳ vĩ của đỉnh núi Cao Muôn, in bóng dài trong tâm thức những thế hệ mai sau không thể phai mờ.
Bài và ảnh: HỒNG VÂN