QĐND Online - Tôi là Di Thiện Tích, năm nay đã 84 tuổi, tuy nhiên, khi kể những câu chuyện này là lúc đầu óc tôi còn sáng suốt, cho dù mắt đã quá kém và tai cũng đã không còn được thính như vài năm trước.

Cả cuộc đời của tôi nhiều lúc sóng gió nhưng vẫn vững vàng cho đến những năm tháng cuối cùng mà ân huệ trời đất ban cho. Tôi sinh ra ở cuối miền châu thổ Nam bộ và lớn lên tại mảnh đất Trà Vinh yêu thương. Tuy không phải gốc gác người Kinh nhưng nhiều đời gia tộc tôi đã sinh cơ lập nghiệp trên mảnh đất Lạc Hồng và tự hào là người Việt Nam. Làng quê tôi hồi đó là đồng bưng sát sông Cái và hưởng gió biển mặn nồng. Ông bà, cha mẹ, anh em nhiều đời đã khai hoang tạo nên những cánh ruộng, mảnh vườn. Cùng với bà con các dân tộc Kinh, Hoa, Khơme... tạo lập nên làng xã và quyết tâm bảo vệ quê hương thân yêu của mình bằng mọi giá, kể cả xương máu.

Đại tá Di Thiện Tích (thứ 2 từ phải qua) cùng đồng đội

Khi cờ đỏ sao vàng tung bay trên miền quê nghèo và người dân thoát cảnh đô hộ của thực dân Pháp chưa được bao lâu thì quân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Lớp trẻ quê tôi được giác ngộ Cách mạng và tham gia kháng chiến chống Pháp. Tôi là xã đội trưởng kiêm công an xã An Quảng Hữu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Trong suốt 9 năm trường kỳ kháng chiến, quân và dân huyện Trà Cú đã lập nhiều chiến công lưu danh muôn thuở.      

Năm 1954 tôi được ra Bắc tập kết. Từ năm 1955 đến 1962 học tập, rèn luyện trong môi trường quân đội ở hậu phương lớn và ôm ấp một ước mong được trở về Miền Nam chiến đấu giải phóng quê hương thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của Mỹ, ngụy. Cuối năm 1962 tôi được toại nguyện, là lính chủ lực của Miền Đông Nam bộ và từ cán bộ Trung đội đến cán bộ Sư đoàn, tôi đã trải qua những năm tháng hào hùng đánh Mỹ, ngụy.

Có một kỷ niệm trong vô vàn ký ức đối với tôi thật đặc biệt mặn mà, đó là trong đợt 2 Tết Mậu Thân 1968, khi Trung đoàn 2, Sư đoàn 9 chúng tôi hành quân đến xã Tân Xuân, Hóc Môn. Đội hình Trung đoàn nằm trải dài suốt xã, bộ đội vừa đào hầm ém quân xong thì trời cũng hửng sáng. Khi mặt trời đứng bóng, có 4 cô gái ăn mặc bảnh bao phóng xe Honđa chạy vào nơi Trung đoàn bộ đóng quân. Chúng tôi nhận ra các cô gái này là biệt động thành đến phối hợp tác chiến. Các cô báo tin có đoàn xe tăng Mỹ 20 chiếc đang tiến vào khu trú quân. Lập tức Trung đoàn có phương án tác chiến và triển khai đội hình phục kích. Các cô gái hăng hái tham gia vào trận đánh. Đơn vị diệt 18 xe tăng Mỹ, bắt sống 2 chiếc cùng nhiều tù binh Mỹ, thu nhiều vũ khí. Chiến công vang dội này được ghi vào truyền thống vinh quang của Trung đoàn 2, Sư đoàn 9 và của xã Tân Xuân huyện Hóc Môn (sau này được phong là xã anh hùng). Bốn cô gái biệt động thành đều mang biệt danh và tôi chớp nhoáng làm quen với một cô tên là “ Sáu ù “, được biết gia đình cô ở Thới Tam Thôn, Hóc Môn. Ngay đêm hôm đó chúng tôi lại tiếp tục hành quân đi chiến đấu và chưa một lần được trở lại chiến địa này (nơi được ghi nhận là niềm tự hào của mảnh đất 18 Thôn Vườn Trầu).

Trong Chiến dịch mùa Xuân 1975, tôi đảm nhiệm Tham mưu trưởng, Phó Sư đoàn trưởng Sư đoàn Thép. Sư đoàn chúng tôi là mũi nhọn thọc thẳng vào nội ô và cùng các đơn vị khác làm nên chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất non sông. Sau chiến thắng chúng tôi làm công tác Quân quản. Nhìn lại chính mình thì đã bước vào tuổi 40 và vẫn phòng không gối chiếc, cậu lái xe cho tôi thủ thỉ: “Để em làm mai cho thủ trưởng một đám này vừa đẹp người vừa đẹp nết, lại là con gia đình Cách mạng”. Tôi nghe cũng bùi tai, vả lại khi soi gương thấy mình còn phong độ nên tôi tự tin lên xe đi “tìm vợ”.

Từ quận 5 xe trở ra vùng ngoại ô đến huyện Hóc Môn. Hồi đó đang là mùa mưa nên các cánh đồng bạt ngàn màu xanh, phủ đi các vết lở loét của chiến tranh. Lòng vòng đường làng, chú em lái xe đưa tôi đến thăm một gia đình cách mạng. Ông bà có 3 người con trai là liệt sĩ, một người con gái là biệt động thành trong đội Biệt động 67A Gò Môn - Biệt động Sài Gòn Gia Định. Sau ít phút chào hỏi trong tình thân giao của những người hết lòng vì Đảng, vì dân, tôi được gặp nữ chiến sĩ biệt động gan góc, dũng mãnh nhưng vẫn còn e ấp.

Rồi qua câu chuyện về kháng chiến chúng tôi nhận ra nhau, em chính là một trong 4 cô gái năm 1968 đã từng phối hợp với đơn vị tôi đánh đoàn xe Mỹ tại Tân Xuân, Hóc Môn. Hồi đó chỉ biết biệt danh của em “Sáu ù”, nay biết em mang tên một loài hoa trong trắng, tinh khiết và ngào ngạt hương thơm -Huệ. Hồi đó em mê chủ lực và rất nhanh chóng, tôi với Huệ như có duyên tiền định nên chỉ sau thời gian ngắn đã nên nghĩa vợ chồng, mặc dù tôi hơn em cả con giáp. Hoàn cảnh kinh tế lúc đó còn khó khăn nhưng đám cưới nhà binh vẫn đủ lệ bộ, vui và tiết kiệm tối đa.

Mẹ vợ tôi được công nhận là “Bà Mẹ Việt Nam anh hùng", ba vợ tôi là người có công chở che cán bộ, bộ đội nhiều năm. Vợ tôi được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng II. Tôi rất tự hào về gia đình bên vợ.

Rồi chúng tôi có được 2 đứa con trai, lớn nhanh như thổi. Gia đình chúng tôi tràn đầy hạnh phúc. Khi các con đã trưởng thành, vợ tôi mắc bệnh tiểu đường , vì trong kháng chiến có nhiễm chất độc da cam bởi thường xuyên vô căn cứ Miền họp hành.

Sau nhiều năm chống đỡ với căn bệnh quái ác, nay gần 70 tuổi đầu vợ tôi từ “Sáu ù” trở thành bà già ốm tong teo và phải nhập viện khi chân bị hoại tử. Nhờ sự giúp đỡ tận tình của đồng chí cựu chiến binh Mười Xích và tập thể CBNV bệnh viện Chợ Rẫy cứu chữa và cưa thành công một chân để cứu vợ tôi thoát chết. Tôi đã trên 80 tuổi nhưng vẫn đi lại hơn 80 cây số bằng xe buýt để tự tay lo cho vợ và cùng các con thay nhau trực ngày đêm bên vợ. Cho dù cực khổ đến thế nào cũng không bằng sự hy sinh của vợ tôi đối với xã hội và gia đình.

Bạn bè xưa nay của chúng tôi hầu hết đều có mặt góp công, góp tiền lo cho vợ tôi, nhất là anh Mười Xích quá ư là chu đáo. Trung tướng Nguyễn Năng Nguyễn, nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và các đồng chí trong Bộ tư lệnh Quân đoàn 4, Ban chỉ huy Sư đoàn 9, Trung đoàn 2, Tiểu đoàn 5, các cựu chiến binh một thời cùng chung chiến hào với tôi, hiện đang ở các miền từ Bắc đến Nam, đã không quản ngại đường xa, sức yếu đều đến thăm hỏi, tặng quà động viên. Nghĩa tình đồng đội ấm cúng, thân thiết và gắn bó như ruột thịt, đúng là “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”. Gia đình hai bên nội ngoại liên tục thay nhau chăm sóc, an ủi vợ tôi trong suốt một tháng nằm tại bệnh viện. Đặc biệt chú Tài, người em láng giềng thân thiết của vợ chồng tôi, hàng ngày chăm lo cung cấp thực phẩm bồi dưỡng cho vợ tôi đến tận hôm nay.

Vợ tôi đã qua cơn nguy kịch, gần như từ cõi chết trở về.

Tôi kể câu chuyện để cảm ơn tất cả bạn bè, chiến hữu và bà con thân tộc nội ngoại. Cảm ơn các con trai, con dâu đã hết lòng với Mẹ. Nếu không có tình thân và sự giúp đỡ vô bờ bến của mọi người, chắc chắn chúng tôi đâu còn được ở bên nhau những lúc xế chiều.

Đoàn Hồng Cẩm ghi