Những năm 1973-1975, cùng với việc tạo ra thế và lực mới, quân đội ta đã xây dựng được các quân đoàn binh chủng hợp thành, trang bị khá mạnh, sức đột kích lớn, cơ động cao, chiến đấu liên tục, làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng và cục diện trên chiến trường miền Nam ngày càng có lợi cho ta.

Để giải phóng miền Nam, quân đội ta phải mở những chiến dịch lớn, tác chiến hiệp đồng nhiều lực lượng, trong đó bộ đội chủ lực là nòng cốt. Vì vậy, việc thành lập các quân đoàn chủ lực là yêu cầu tất yếu. Năm 1973, Bộ Quốc phòng thành lập Quân đoàn 1. Tiếp đến những năm 1974 và đầu năm 1975, thành lập các Quân đoàn 2, 3, 4. Sau khi đã giành thắng lợi trong các chiến dịch Tây Nguyên, Trị Thiên-Huế-Đà Nẵng; Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định tập trung lực lượng lớn chủ lực và binh khí kỹ thuật cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Thực hiện quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, các binh đoàn chủ lực được lệnh hành quân thần tốc, áp sát Sài Gòn cùng với các lực lượng tại chỗ tạo thế bao vây, cô lập địch. Quân đoàn 1 hành quân bằng cơ giới vượt khoảng 1.700km từ miền Bắc vào miền Đông Nam Bộ. Quân đoàn 2, sau khi giải phóng Đà Nẵng hành quân gấp rút với hơn 2.000 xe các loại qua 900km vào miền Đông Nam Bộ. Quân đoàn 3, cấp tốc hành quân từ Tây Nguyên vào Đông Nam Bộ. Quân đoàn 4 tham gia chiến đấu trong chiến dịch Xuân Lộc và  Đoàn 232 đang chiến đấu ở hướng tây nam Sài Gòn.

Xe tăng Quân đoàn 2 vào giải phóng thành phố Đà Nẵng. Ảnh tư liệu.

Đến đây, thế trận bố trí, sử dụng các binh đoàn chủ lực đã hình thành trên 5 hướng tiến vào Sài Gòn: Hướng tây bắc gồm Quân đoàn 3 cùng hai trung đoàn (1 và 2 Gia Định), các đội đặc công-biệt động của Thành đội Sài Gòn và lực lượng phòng không chiến dịch; hướng Bắc và đông bắc gồm Quân đoàn 1 được tăng cường Trung đoàn 95 (Sư đoàn 325, Quân đoàn 2) và một trung đoàn phòng không; hướng đông và đông nam gồm Quân đoàn 4, được tăng cường Lữ đoàn bộ binh 52 (Quân khu 5) và một số tiểu đoàn binh chủng; hướng đông gồm Quân đoàn 2; hướng tây và tây nam gồm Đoàn 232 và lực lượng vũ trang Quân khu 8. Các đơn vị đặc công biệt động và lực lượng vũ trang thành phố Sài Gòn làm nhiệm vụ dẫn đường để các binh đoàn thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu, hỗ trợ quần chúng nổi dậy phối hợp với đòn tiến công quân sự.

Về nghệ thuật tổ chức lực lượng, trước khi mở cuộc tiến công chiến lược, ta tổ chức 3 binh đoàn chiến lược ở hai hướng chiến lược quan trọng: Quân đoàn 2 ở Trị-Thiên, Quân đoàn 4 và Đoàn 232 ở Đông Nam Bộ. Trong khi đó, Quân đoàn 1 làm lực lượng dự bị chiến lược ở miền Bắc, sẵn sàng hành quân thần tốc vào chi viện chiến trường khi cần thiết. Sau khi chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi, ta tổ chức Quân đoàn 3, sẵn sàng cơ động xuống miền Đông Nam Bộ, cùng 4 binh đoàn chiến lược và các lực lượng của ta, hình thành thế áp đảo về lực lượng đối với địch để đánh trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Về nghệ thuật sử dụng lực lượng, trong chiến dịch Tây Nguyên, ta tập trung lực lượng mức độ, nhưng với trận Buôn Ma Thuột, trận then chốt mở đầu, ta tạo ưu thế áp đảo lực lượng so với địch (bộ binh 4,5/1; xe tăng-thiết giáp 5,5/1; pháo binh 5/1...); ta còn nghi binh, lừa địch hiệu quả, tạo thế cho hướng chủ yếu, chia cắt, bao vây cô lập địch, đánh 3 trận then chốt thắng lợi. Trong các cuộc tiến công ở Trị Thiên-Huế và Đà Nẵng, địch đông quân hơn, nhưng ta có thế mạnh hơn hẳn địch sau chiến thắng Tây Nguyên, nên đã áp đảo, nhanh chóng đánh thắng địch. Đến chiến dịch Hồ Chí Minh, ta tạo được ưu thế áp đảo lực lượng đối với địch. Nếu trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), ta chỉ sử dụng 5 trong tổng số 7 đại đoàn chủ lực, thì đến chiến dịch Hồ Chí Minh, ta đã tập trung được một lực lượng quân sự lớn, trong đó có 5 quân đoàn chủ lực và lực lượng tại chỗ của Nam Bộ; cùng với hàng chục sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn quân chủng, binh chủng với nhiều vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại, hình thành ưu thế áp đảo về lực lượng chủ lực để đánh thắng địch. Đây là bước phát triển cao về nghệ thuật tổ chức và sử dụng lực lượng của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Ngày nay, đặc điểm và tính chất của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đặt ra cho nghệ thuật quân sự Việt Nam, trong đó nghệ thuật tổ chức lực lượng cần có những điều chỉnh phù hợp. Những kinh nghiệm về tổ chức và sử dụng các quân đoàn chủ lực trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung, trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 nói riêng là kết tinh truyền thống đánh giặc của dân tộc, tri thức quân sự của thời đại và đổi bằng biết bao xương máu của bao thế hệ trong chiến đấu một mất một còn để giành thắng lợi vì độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đó là tài sản vô giá cần được quý trọng, tiếp tục nghiên cứu, vận dụng phát triển sáng tạo, phù hợp với điều kiện mới của đất nước và bối cảnh quốc tế, khu vực hiện nay, làm cho nghệ thuật quân sự Việt Nam được bổ sung, hoàn thiện không ngừng, tạo thành sức mạnh tổng hợp đánh bại mọi kẻ thù xâm lược trong bất cứ tình huống nào, kể cả chiến tranh công nghệ cao, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Đại tá, Tiến sĩ Dương Đình Lập