 |
(ảnh: nguoidaibieu) |
Bị thất bại chiến lược chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ đã đưa sang Việt Nam gần nửa triệu quân tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” với mức độ được đẩy lên cao rất quyết liệt, nhưng vẫn mất dần quyền chủ động trên chiến trường. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (họp tháng 12-1965) đã nhận định: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Sau khi phân tích tình hình mọi mặt, Ban Chấp hành Trung ương chủ trương: “Trên cơ sở tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, chúng ta cần phải cố gắng cao độ, tập trung lực lượng của hai miền để tranh thủ thời gian giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn”(1).
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương 12, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã liên tiếp đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, 1966-1967, làm thất bại các bước leo thang chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ trên miền Bắc. Bị thất bại liên tiếp, nhưng Oét-mô-len - Tổng chỉ huy quân Mỹ ở Nam Việt Nam còn đề nghị tăng quân chuẩn bị kế hoạch mở cuộc phản công lần thứ ba với quy mô lớn hơn.
Tuy chúng ta đã giành được nhiều thắng lợi, nhưng chưa làm chuyển biến cơ bản cục diện chiến tranh. Bởi vậy, một vấn đề lớn đặt ra là ta cần có một đòn chiến lược có ý nghĩa quyết định để tạo ra cục diện mới - một bước ngoặt của cách mạng miền Nam. Tháng 6-1967, Bộ Chính trị họp đề ra chủ trương: Nhân lúc Mỹ đang lúng túng về chiến lược, lại đang chuẩn bị cho năm bầu cử tổng thống, quân và dân ta cần đánh một đòn quyết định, tạo chuyển biến nhảy vọt cho cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam.
Tháng 10-1967, anh Nguyễn Văn Linh và anh Trần Văn Trà ra Trung ương họp. Sang tháng 11, hai anh trở vào phổ biến việc Bộ Chính trị quyết định tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Để chuẩn bị cho tổng công kích, trên điều anh Hoàng Văn Thái vào làm Tư lệnh Bộ Chỉ huy Miền.
Bộ chỉ huy Miền khẩn trương triển khai nhiều biện pháp tổ chức thực hiện: Xây dựng quyết tâm, tạo sự nhất trí cao giữa Trung ương và chiến trường, tiến hành nghi binh bằng quân sự, tiến hành mọi công tác chuẩn bị theo một kế hoạch, nghiêm ngặt, giữ ý định chiến lược của ta.
Sau khi có Nghị quyết của Bộ Chính trị về “Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam” tháng 12-1967, việc chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi dậy càng gấp hơn. Ngày 21-1-1968, Trung ương Cục ra Nghị quyết về thống nhất tổ chức chỉ đạo tổng công kích-tổng khởi nghĩa ở khu Sài Gòn – Gia Định.
Trước giờ công kích, anh Phạm Hùng thay mặt Trung ương Cục thông qua kế hoạch và gọi riêng từng đồng chí Bí thư Tỉnh ủy lên giao nhiệm vụ.
Đêm 29 rạng sáng ngày 30-1-1968 (đúng Giao thừa Tết Mậu Thân), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta đã bắt đầu tại hàng chục thành phố, thị xã trên toàn miền Nam, trong đó trọng điểm là các mục tiêu ở Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng.
Đây là cuộc tiến công và nổi dậy quy mô lớn nhất, cường độ mãnh liệt nhất, gây bất ngờ về chiến lược đối với địch.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, từ đợt 1 đến đợt 2 và đợt 3, chúng ta đã giành những thắng lợi quan trọng cả về quân sự, chính trị và ngoại giao. Qua sự kiện Tết Mậu Thân, phong trào phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam càng lên cao. Thắng lợi lớn nhất của Tết Mậu Thân là đã đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Tổng thống Giôn-xơn phải đơn phương tuyên bố: Ngừng ném bom Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận ngồi vào bàn hội nghị đàm phán với ta ở Pa-ri, chấm dứt việc đưa quân vào chiến trường miền Nam; thay Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam, Giôn-xơn không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ hai.
Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân đã đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ, buộc Mỹ phải rút quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Nhưng rút quân, thì đồng thời Mỹ lại thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, hòng duy trì âm mưu xâm lược dưới một hình thức mới, nhằm biến miền Nam Việt Nam thành bàn đạp, thành lực lượng mạnh để khống chế Đông Nam Á, trong đó miền Bắc Việt Nam là chủ yếu và ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc.
Mỹ đề ra kế hoạch phát triển quân ngụy, đưa số quân ngụy lên 1.100.000 người. Trong quá trình rút quân, Mỹ củng cố, tăng cường ngụy quân, ngụy quyền, tập trung lực lượng tấn công quyết liệt giành đất, giành dân và đánh phá miền Bắc ác liệt hơn, kể cả bằng máy bay ném bom chiến lược B52. Đến đầu năm 1972, Mỹ đã cơ bản thực hiện xong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Nhưng lúc đầu, bộ đội ta, kể cả lãnh đạo, chỉ huy chưa hiểu hết sự khốc liệt của “Việt Nam hóa chiến tranh” và chưa thấy hết âm mưu độc ác của Mỹ, nên từ cuối năm 1968, cho đến cuối năm 1971, bộ đội chủ lực ta phần lớn đã thoát ly khỏi địa bàn, làm mất chỗ dựa cho dân và cơ sở chống bình định.
Đầu năm 1969, tôi được cấp trên giao nhiệm vụ đảm trách Tư lệnh Quân khu 9. Xuống tới nơi thấy rõ một thực trạng là địch đã bình định lấn chiếm gần hết vùng đông dân, chỉ còn căn cứ U Minh và khu giải phóng Cà Mau. Lực lượng chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương đều mất sức chiến đấu… Tôi thay anh Cống làm Tư lệnh, anh Ba Bường thay anh Mười Thơ làm Bí thư Khu ủy. Mấy tháng sau, trên điều anh Võ Văn Kiệt xuống thay anh Ba Bường. Bộ tư lệnh Quân khu tập trung củng cố về tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang, khôi phục lại lực lượng chính trị, chỉ đạo phương châm tác chiến, phương thức đấu tranh, khôi phục lại thế và lực của Khu 9.
Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Miền, Quân khu 9 cố gắng kiềm chế ngăn chặn kế hoạch “bình định cấp tốc” của địch. Đầu tháng 9-1969, Bộ tư lệnh Quân khu 9 đã lãnh đạo các lực lượng vũ trang quân khu đánh bại kế hoạch bình định U Minh lần thứ nhất của địch. Thắng lợi này đánh dấu bước đầu về tinh thần và tổ chức lực lượng của quân khu đã được củng cố, xốc lại để vượt qua những ngày khó khăn nhất mà đi lên.
Tháng 3-1970, các lực lượng vũ trang quân khu đã đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm U Minh lần thứ hai của địch.
Sau khi đánh bại địch lấn chiếm U Minh lần thứ 2, trong cấp chỉ đạo của quân khu nổi lên cách nhìn và những chủ trương khác nhau.
Cuộc đấu tranh giữa những chủ trương đó kéo dài đến tháng 9-1970 mới đi đến nhất trí trong hội nghị Khu ủy. Cuộc họp ở U Minh Hạ, vì địch càn, phải di chuyển tới ba lần. Tại hội nghị này, Khu ủy đã ra nghị quyết cụ thể về việc bám trụ, trong đó chỉ rõ: Lực lượng vũ trang phải bám dân, sống trong dân, làm chỗ dựa cho dân, cùng với dân hình thành lực lượng tổng hợp, kết hợp chặt chẽ ba thứ quân thường xuyên tiến công địch.
Thực hiện nghị quyết của trên, Bộ tư lệnh Quân khu đã phân công địa bàn cho các đơn vị, cơ quan bám trụ đánh địch. Nhưng việc bám trụ và đánh địch của các cơ quan trong Bộ Tư lệnh Quân khu diễn ra trong tình thế hết sức căng thẳng. Lúc đó, Khu ủy có ý kiến khuyên quân khu nên di chuyển cơ quan về nam Cà Mau để có điều kiện ổn định làm việc. Chúng tôi nhất trí nhận định rằng, nếu chuyển về nam Cà Mau sẽ gặp trở ngại rất lớn; và nếu ta rút, địch sẽ lấn chiếm ngay, theo đó mất đất, mất dân. Được sự đồng ý của khu ủy, Bộ tư lệnh quân khu hạ quyết tâm bám trụ ở U Minh Thượng, tạo thế xen kẽ và tấn công địch bằng lực lượng tổng hợp trên cả ba vùng chiến lược. Đồng thời, triển khai sở chỉ huy tiền phương của quân khu ở Long Mỹ (Cần Thơ), gần sát đồn địch.
Đầu tháng 12-1970, địch sử dụng lực lượng lớn mở cuộc hành quân lấn chiếm U Minh lần thứ ba. Tình hình quân khu lúc này vô cùng khó khăn. Bộ đội phải ăn cháo nhiều bữa, lại phải đánh địch liên tục nên sức khỏe giảm sút. Đạn dược cũng thiếu nghiêm trọng. Lúc này hầu hết các tỉnh Nam Bộ đều bị địch chiếm, còn bộ đội chủ lực của Miền đều sang hoạt động trên đất Cam-pu-chia. Do đó, địch rảnh tay điều động cả lực lượng tổng trù bị phối hợp với ba sư đoàn chủ lực tập trung bình định U Minh. Có lúc tình thế nguy cấp, tôi phải điện cho Bộ chỉ huy Miền, đề nghị cho một bộ phận chủ lực trở về nội địa tham gia đánh địch bình định. Thậm chí, trong điện tôi phải hạ bút viết: “Trong giờ phút nguy kịch này, những ai còn ở bên ngoài đất nước không tham gia chiến đấu đánh phá bình định của quân thù là có tội với Tổ quốc”.
Đến tháng 6-1971, về cơ bản địch lấn chiếm U Minh Thượng, một phần U Minh Hạ và đang có kế hoạch lấp kín 17 đồn ở U Minh, sau đó mở rộng lấn chiếm nam Cà Mau. Nắm được ý đồ của địch, Khu ủy và Bộ tư lệnh quân khu quyết định mở một đợt phản công vào mùa mưa năm 1971 ở U Minh ngay trong vùng trọng điểm bình định của địch. Đợt phản công này ta đã thu được thắng lợi. Địch phải hủy bỏ kế hoạch “Tô dày, lấp kín U Minh”.
Để hỗ trợ cho đấu tranh ngoại giao, quân và dân ta đẩy mạnh tiến công chính trị và quân sự, trên các chiến trường đã giành thắng lợi lớn. Thắng lợi thu được của hai năm 1971-1972 đã làm thay đổi hình thái chiến trường có lợi cho ta. Từ chỗ bị địch lấn chiếm gần hết đất, hết dân (còn khoảng 2.000 dân), hoàn toàn nằm trong thế bị động chống đỡ địch đánh phá, Quân khu 9 đã gượng dậy và chuyển dần sang chủ động tiến công đánh bại bước đầu chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ - ngụy.
Hiệp định Pa-ri chính thức được ký kết ngày 27-1-1973, có hiệu lực từ 7 giờ ngày 28-1-1973. Ngày 29-3-1973, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Mỹ cuốn cờ về nước. Hiệp định quy định quân Mỹ rút, các lực lượng vũ trang còn lại của “hai bên Việt Nam” ở nguyên tại chỗ. Ta duy trì trên chiến trường thế xen kẽ “da báo”, một thực trạng rất có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Ngày 28-1-1973, Hiệp định Pa-ri có hiệu lực. Theo quy định hai bên ngừng bắn tại chỗ.
Ngày 29-1-1973 (24 giờ sau ngừng bắn), Bộ Tư lệnh Quân khu 9 đánh giá tình hình: “Địch ngoan cố tiếp tục chiến tranh” và chỉ thị cho các đơn vị kiên quyết đánh địch vi phạm Hiệp định.
Ngay sau khi Hiệp định được ký kết, Thiệu và chính quyền tay sai Mỹ đã điên cuồng xua quân lấn chiếm vùng giải phóng, tràn ngập lãnh thổ... Tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, tháng 2-1973, Tư lệnh vùng 4 chiến thuật đã triển khai kế hoạch bình định lấn chiếm rất tích cực. Kế hoạch bình định ở trọng điểm Tây Nam Bộ, năm 1973 của địch gồm 3 đợt: Đợt 1: Bình định lấn chiếm Chương Thiện. Đợt 2: Bình định lấn chiếm U Minh. Đợt 3: Bình định lấn chiếm Cà Mau.
Đầu tháng 3-1973, Bộ Tư lệnh Quân khu xác định nhiệm vụ trung tâm của quân khu là: Phá kế hoạch bình định, buộc địch phải thực hiện hiệp định. Quân khu bố trí hầu hết các đơn vị chủ lực vào địa bàn trọng điểm. Vùng ruột Hậu Giang có Trung đoàn 1 ở Bắc Long Mỹ, Trung đoàn 2 và Trung đoàn 10 ở Tây Nam Long Mỹ, Trung đoàn 20 ở Giồng Riềng. Vùng ruột Vĩnh Trà, có Trung đoàn 3 ở Tam Bình. Sở chỉ huy cơ bản của quân khu ở U Minh Thượng. Sở chỉ huy tiền phương quân khu vẫn duy trì ở Tây Nam Long Mỹ.
Nắm được kế hoạch bình định lấn chiếm Chương Thiện của địch, Khu ủy và Bộ tư lệnh quân khu, một mặt xin ý kiến của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Trung ương Cục, về quân sự xin ý kiến của Bộ Chỉ huy Miền; một mặt quyết tâm tiến công và phản công trừng trị quân địch vi phạm Hiệp định Pa-ri. Trước mắt đẩy lùi và làm thất bại kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” lấn chiếm Chương Thiện của chúng.
Giữa tháng 3-1973, địch mở cuộc hành quân cấp quân đoàn với lực lượng 30 tiểu đoàn đồng loạt đánh vào Tây Nam Long Mỹ. Cuối tháng 4, địch điều thêm lực lượng bảo an vào Chương Thiện, đưa tổng số quân tương đương 46 tiểu đoàn để tiếp tục thực hiện kế hoạch bình định, lấn chiếm. Song, khi chúng tôi đang tổ chức đánh địch quyết liệt, thì Bộ chỉ huy Miền ra chỉ thị (số 02) với phương châm “lấy đấu tranh chính trị làm cơ sở, đấu tranh vũ trang làm hậu thuẫn...” và chỉ thị rút 2 trung đoàn về căn cứ U Minh để chỉnh huấn. Bộ chỉ huy Miền còn hai lần điện (số 05 và 07) yêu cầu T3 (mật danh Quân khu 9) phải thấy tình hình mới, phải có biện pháp mới và phê bình T3 không thi hành chủ trương của Trung ương Cục, đồng thời, thông báo cho toàn Miền.
Cuối tháng 5-1973, trên Miền có Hội nghị tổng kết công tác đấu tranh chính trị và binh vận. Đoàn cán bộ tổng kết của Trung ương và Trung ương Cục phê phán Khu 9 làm sai đường lối của trên và nhắc nhở các nơi khác phải thực hiện “5 cấm”(2). Cùng thời gian đó, đoàn đại biểu binh vận và thanh niên của Khu 9 đi R (Miền) dự hội nghị tiếp thu chủ trương của trên. Trung ương Cục cho phép về thẳng cơ sở phổ biến, cho rằng, hiện nay lấy đấu tranh chính trị, binh vận làm gốc, nơi nào tấn công quân sự là sai lầm.
Đến ngày 30-8-1973, tức là hết thời hạn đợt 2 của địch, quân địch vẫn không hoàn thành được việc chiếm Chương Thiện, chưa đánh phá được U Minh. Lúc này cũng là thời điểm đã có và triển khai văn bản Nghị quyết 21(3) của Trung ương Đảng. Các quân khu bạn được lệnh phản công. Tình thế mới của Quân khu 9 xuất hiện, địch yếu đi nhiều, ta tấn công liên tục.
Bước hai của địch từ tháng 6 đến tháng 10, chúng tiếp tục thực hiện việc bình định lấn chiếm Chương Thiện để cô lập U Minh. Một lần nữa, tháng 10-1973 địch vẫn không thực hiện được kế hoạch. Địch cay cú tập trung lực lượng đến 75 tiểu đoàn, chuẩn bị cuộc hành quân tháng 11 đánh vào Chương Thiện.
Ngày 6-11-1973, Thường vụ khu ủy và Quân khu ủy họp, chủ trương: “Phát huy thế chủ động và tư tưởng tiến công, kiên quyết bẻ gãy cuộc hành quân tháng 11 của địch, bảo vệ căn cứ, đồng thời tích cực chuẩn bị kế hoạch để chuyển sang tiến công trong mùa khô tới...”.
Cuộc hành quân tháng 11-1973 của địch bị bẻ gãy hoàn toàn, từ đây địch chấm dứt bình định lấn chiếm Chương Thiện. Kể từ ngày có Hiệp định Pa-ri, đến đây, riêng trên địa bàn Khu 9, kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của ngụy quân ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu cơ bản đã phá sản.
Lúc này, Khu 9 nhận được điện của Trung ương gọi ra báo cáo. Quân khu đã cử anh Kiệt đi. Sau đó, trên gọi tôi ra báo cáo.
Ra đến Hà Nội, anh Văn Tiến Dũng gặp tôi bảo: “Về sức khỏe thì cậu cố gắng thêm. Còn về công việc thì cứ yên tâm về làm cho chắc. Cậu về nắm chắc tình hình và bàn với các anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà để triển khai công việc. “Công việc” thì các anh đó biết cả rồi”.
Lúc bấy giờ bên Trung ương có làm bữa cơm, gọi tôi sang. Khi ăn có các anh Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ. Ăn xong, anh Thọ nói: “Báo cáo tình hình xong, thì cậu trở về Miền ngay”. Anh Duẩn gặp riêng và nói rằng: “Về nói với anh Hùng, anh Trà, bàn trong nội bộ phải giải phóng nhanh nhất. Nếu để chậm thì ngụy Sài Gòn nó lại hồn, nó củng cố thì sẽ rất khó”. Anh nói hai lần “nó lại hồn, sẽ rất khó”. Rồi anh nói tôi sang báo cáo tình hình với Chủ tịch Tôn Đức Thắng.
Báo cáo xong, tôi trở về Miền ngay. Ít ngày sau, Bộ Chỉ huy Miền nhận được thông báo quyết định của Trung ương phong cấp hàm cho tôi từ Sư đoàn bậc trưởng (tương đương Đại tá) lên Trung tướng. Và tôi được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Bộ Chỉ huy Miền.
Theo lời dặn của anh Lê Duẩn và anh Văn Tiến Dũng, tôi gặp và báo cáo với hai anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà. Anh Trà bảo: “Căn cứ vào việc nắm tình hình, xong thì cậu làm kế hoạch đi. Sau khi Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền có ý kiến là triển khai luôn”. Anh Hùng cũng bảo tôi: “Làm sớm đi”. Khi làm kế hoạch tác chiến, tôi bàn với hai anh Năm Ngà và Hai Tưởng, kế hoạch có 3 nội dung: Xây dựng lực lượng ở các đô thị và vùng ven đô; Mở vùng giải phóng ra hướng Long An, kể cả vùng Nam Long An, tức là cả phía nam và phía bắc lộ 4; Mở rộng hành lang Trường Sơn, trọng điểm là trục đường 14 và 20.
Sau hơn một năm ta đẩy mạnh đấu tranh vũ trang hỗ trợ trực tiếp cho đấu tranh chính trị và binh vận, chặn đứng được một cách cơ bản kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của địch, thì thế và lực của ta đã được củng cố và phát triển một bước mới. Từ thế và lực mới này, chúng ta đã vạch ra kế hoạch tiến công mùa khô 1974-1975, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy. Để có “quả đấm chủ lực mạnh” cho cuộc tấn công và nổi dậy, Bộ Chỉ huy Miền quyết định thành lập cho mỗi quân khu (trừ quân khu 6 và Sài Gòn) một sư đoàn nhẹ. Ngày 20-7-1974, Bộ chỉ huy 351 (sau đó đổi là Quân đoàn 4) được thành lập.
Cuối tháng 10-1974, Trung ương Cục nhận được điện của Bộ Chính trị gọi hai anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà ra Hà Nội họp. Trước khi đi, Trung ương Cục giao cho anh Kiệt thường trực bên Trung ương Cục và giao cho tôi thay vị trí chỉ huy của anh Trà.
Khi hai anh Phạm Hùng và Trần Văn Trà lên đường ra Bắc họp, thì những ngày này, các lực lượng B2 cũng nhộn nhịp lên đường hành quân tới các vị trí tập kết, bước vào cuộc chiến đấu mùa khô theo kế hoạch. Trước tiên là tổ chức đánh Đồng Xoài. Vì Đồng Xoài là vị trí then chốt của tỉnh Phước Long cũng như của tuyến đường 14. Nhưng khi anh em đang gỡ hàng rào kẽm gai của địch để mở cửa mở cho một hướng tiến công vào Đồng Xoài, thì chúng tôi nhận được điện từ Trung ương, với nội dung không cho đánh Đồng Xoài. Tôi bảo anh em, mở xong hàng rào thì cài lại, đánh dấu để đó, giữ nguyên lực lượng lui ra bao vây. Chúng tôi sử dụng Trung đoàn 271 thuộc Sư đoàn 3 để đánh vào Bù Đăng. Tôi nói với anh em khi đánh được Bù Đăng rồi, ta sẽ đánh Đồng Xoài. Đồng thời, tôi điện cho anh Trà biết quyết định điều chỉnh kế hoạch.
Bộ chỉ huy phân công mỗi người bám sát và chỉ đạo một hướng. Tôi và anh Lê Văn Tưởng tại Sở Chỉ huy trung tâm (lúc đó ở Tà Thiết), chỉ đạo toàn chiến trường B2.
Sáng 14-12-1974, lực lượng Sư đoàn 3 bắt đầu nổ súng tiến công Bù Đăng. Sau khi đánh chiếm được Bù Đăng, chúng tôi quyết định nhanh chóng chuyển cuộc tiến công sang đợt 2, tiêu diệt chi khu Bù Đốp và Đồng Xoài.
Sáng 23-12, Trung đoàn 165 cùng lực lượng được tăng cường, nổ súng tiến công Bù Đốp. Trước nguy cơ Bù Đốp bị tiêu diệt, tiểu khu Phước Long bị uy hiếp, trưa ngày 23, Quân đoàn 3 ngụy dùng máy bay trực thăng đổ một tiểu đoàn và hai khẩu pháo 155mm xuống Phước Bình. Lực lượng này hành quân đến phía tây Phước Quả, hướng Bù Đốp, ngăn chặn ta. Trên hướng chủ yếu, Sư đoàn 7 lập tức triển khai lực lượng để tiêu diệt Đồng Xoài. 5 giờ sáng ngày 26-12, Trung đoàn 141 nổ súng tiến công Chi khu Đồng Xoài. Đến 15 giờ cùng ngày, đơn vị diệt mục tiêu cuối cùng là chốt cầu số 2. Sau khi đánh được Đồng Xoài phát triển lên đánh chi khu Phước Bình gồm cả sân bay Phước Bình và cao điểm Bà Rá. Đồng thời, điều Trung đoàn 16 ở Trảng Bàng-Củ Chi lên phía Bắc thị xã Phước Long, sẵn sàng khi có lệnh, phối hợp đánh vào thị xã Phước Long. Khi ta đánh Bà Rá, Phước Bình, sân bay Phước Bình và xuất hiện Trung đoàn 16 ở phía Bắc thị xã Phước Long, thì địch hoảng loạn bỏ chạy hết.
Sau 4 ngày chiến đấu, ta đã diệt hai chi khu, nhiều đồn bốt, đánh tan hai tiểu đoàn bảo an, thu được nhiều vũ khí, giải phóng hoàn toàn lộ 14. Thấy đang đà thuận lợi, tôi hội ý trong Bộ chỉ huy Miền, quyết định tiến công đợt 3, phát triển lên hướng thị xã Phước Long. Bộ chỉ huy chúng tôi họp và phân công ba người: tôi, Hoàng Cầm, Năm Ngà, mỗi người chỉ huy một hướng tiến công giải phóng Phước Long. Tôi điều thêm một đại đội xe tăng và lựu pháo 105mm vào tăng cường. Sáng 31 tháng 12 ta phát lệnh nổ súng. Đến chiều ngày 6-1-1975 ta làm chủ hoàn toàn thị xã Phước Long, kết thúc thắng lợi chiến dịch.
Sau 24 ngày chiến đấu tiến công, ta đã diệt và làm tan rã hoàn toàn quân địch ở Phước Long, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng, giải phóng tỉnh Phước Long với hơn 50 vạn dân. Chiến thắng Đồng Xoài - Đường 14 - Phước Long có ý nghĩa là “trận trinh sát chiến lược” thăm dò khả năng quân ngụy và sự can thiệp của Mỹ, làm sáng tỏ hơn những cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam.
Sau khi đánh được Phước Long, Bộ Chỉ huy Miền bắt tay vào làm kế hoạch tiến công giải phóng Sài Gòn. Được sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, cả Bộ chỉ huy Miền thống nhất: sẽ tiến công giải phóng Sài Gòn vào năm 1975.
Nhớ lại, những ngày này ở Bộ Chỉ huy Miền làm việc rất khẩn trương. Cùng với việc soạn thảo kế hoạch là xây dựng “quyết tâm chiến đấu”, sơ đồ đã phác ra 5 hướng (bắc; tây bắc; tây-tây-nam; đông; đông-bắc) tiến công vào sào huyệt cuối cùng của quân thù. Khi hai anh Lê Đức Thọ và Văn Tiến Dũng được Bộ Chính trị cử vào, các anh xem và nói: “Kế hoạch làm tốt, nhưng phải thêm quân”. Và các anh cũng thấy nơi khó khăn nhất là hướng tây-tây-nam vì có nhiều sình lầy. Các anh cũng thống nhất với nhận định của Bộ Chỉ huy Miền, đây là một hướng tiến công rất quan trọng, nhất định ta phải nhanh chóng chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ 4 để quân địch ở Sài Gòn không thể co cụm xuống cố thủ ở Cần Thơ. Và ngược lại, nếu ta chia cắt quân địch trên tuyến quốc lộ 4, thì Quân đoàn 4 và quân ngụy ở vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ không thể kéo về ứng cứu cho Sài Gòn.
Tôi và anh Hai Tưởng được đảm trách chỉ huy cánh quân tiến công trên hướng tây-tây-nam, một trong năm hướng tiến công, một trong năm cánh quân của trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Trước đà thắng lớn của ta ở cả Tây Nguyên và bắc Trung Bộ, ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị kịp thời bổ sung quyết tâm chiến lược: Giải phóng miền Nam trước mùa mưa. Ngày 1-4-1975, căn cứ vào sự phát triển tiến công dồn dập của ta trên chiến trường, Bộ Chính trị lại tiếp tục bổ sung quyết tâm chiến lược: Giải phóng miền Nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4-1975 trước mùa mưa. Ngày 7- 4- 1975, Bộ chỉ huy Miền họp quán triệt chỉ thị của Bộ Chính trị và bàn các giải pháp thực hiện.
Trung ương Cục và Quân ủy Miền đã họp thông qua kế hoạch kết hợp tiến công quân sự với phong trào nổi dậy của quần chúng. Trung ương Cục cử anh Võ Văn Kiệt chuyên lo vấn đề tổ chức và chỉ đạo kế hoạch nổi dậy của quần chúng phối hợp với cuộc tiến công của các binh đoàn chủ lực ta vào thành phố. Trung ương Cục chỉ đạo các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long tự giải phóng, với phương châm: xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh.
Ngày 8-4-1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch Sài Gòn-Gia Định (sau đổi tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh) được thành lập, Tư lệnh: Đại tướng Văn Tiến Dũng; Chính ủy: Phạm Hùng; Phó Tư lệnh: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện (ngày 22-4 bổ sung Trung tướng Lê Trọng Tấn-Phó Tư lệnh, Trung tướng Lê Quang Hòa-Phó Chính ủy).
Ngày 9-4-1975, ta bắt đầu cuộc chiến đấu tạo thế ở đông bắc-tây nam Sài Gòn và đánh địch ở toàn miền Đông Nam Bộ, đồng thời huy động lực lượng lớn, gồm 4 quân đoàn và một đơn vị tương đương quân đoàn, với đầy đủ binh khí kỹ thuật, với năm cánh quân theo năm hướng đã vào thế bao vây Sài Gòn, đợi lệnh đồng loạt tấn công. Phong trào nổi dậy của quần chúng ở ven đô và nội đô cũng đã được chuẩn bị sẵn sàng chờ dịp vùng lên.
Ngày 26-4-1975, ta bắt đầu chiến dịch Hồ Chí Minh tiến công giải phóng Sài Gòn-Gia Định, buộc tổng thống ngụy phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện, hồi 11 giờ 30 phút, ngày 30-4-1975. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã toàn thắng. Như vậy, quân và dân ta đã đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ-ngụy, thực hiện thắng lợi và trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam. Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam luôn giữ vững tính độc lập tự chủ, anh dũng và thông minh, trước mọi biến cố của lịch sử, kiên định mục tiêu mà mình đã lựa chọn. Trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, tăng cường và mở rộng tình hữu nghị, hợp tác với mọi quốc gia, dân tộc trong khu vực và trên thế giới, vì hòa bình, dân chủ và phát triển. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trước những vận hội mới, nhưng cũng không ít thách thức đang đặt ra trong quá trình toàn cầu hóa, hơn lúc nào hết, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam cần được phát huy cao độ để xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng biển, các hải đảo và vùng trời Tổ quốc.
Đại tướng LÊ ĐỨC ANH*
(*) Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, nguyên Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, nguyên Phó tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam, nguyên Phó tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, nguyên Tham mưu trưởng BCH Miền, nguyên Tư lệnh Quân khu 9.
(1) Xem Những sự kiện lịch sử Đảng, tập 3, Nxb Thông tin lý luận, H.1985, trang 356-357.
(2) Cấm bao vây đồn bốt, cấm gỡ đồn bốt, cấm đánh địch bung ra, cấm pháo kích và cấm xây dựng ấp xã chiến đấu.
(3) Trung ương Đảng ra Nghị quyết 21 (7-1973), chỉ đạo các địa phương ở miền Nam tiếp tục con đường bạo lực cách mạng, tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.