QĐND - Phải tranh thủ ăn uống chút gì để lấy sức đêm nay vào bến! - Đồng chí Lộc, thuyền phó phụ trách công tác hậu cần của tàu - người thường được anh em gọi là "Thần giữ của", lúc này cũng xuôi lòng bởi những lời tán tụng của anh em.
Có một điều thú vị phải qua nhiều lần khảo nghiệm mới nhận biết được: Đó là khi đang say sóng mà gặp tình hình căng thẳng như gặp địch, tàu gặp tai nạn hoặc tàu đi lâu ngày nhìn thấy đất liền... thì cơn say sóng biến đâu mất, nhường lại cho sự tỉnh táo bình thường. Các đồng chí say sóng nhất giờ đây cũng ăn được chút ít.
Tàu tiếp tục hành trình. Đúng 12 giờ ngày 28-11-1964, tàu chuyển hướng vào bến. Không khí chuẩn bị trên tàu rất khẩn trương và bận rộn.
Đúng 14 giờ thì phát hiện lờ mờ rặng núi phía đất liền. Tình hình vẫn yên tĩnh. Thỉnh thoảng có một hai lần chiếc máy bay bay qua hướng đi của tàu. Trời đã tối dần. Lúc này tàu ta đã nằm trong bán kính chiếu sáng của đèn Mũi Nậy rồi mà vẫn chưa nhìn thấy ánh chớp. Bao nhiêu giả thuyết được đặt ra: "Có thể vị trí tàu ta sai lệch! Có thể đèn Mũi Nậy không có hoặc bị hỏng máy phát điện...".
Tàu ta vẫn tiếp tục đi theo hướng đã định. Đúng 22 giờ, tàu cách bờ núi 1 hải lý. Chúng tôi dùng đèn pin phát tín hiệu nhận nhau, 5 phút rồi 10 phút trôi qua vẫn không thấy tín hiệu trả lời.
 |
Các chiến sĩ tàu không số vận chuyển, sắp xếp hàng hóa chuẩn bị chi viện cho chiến trường miền Nam. Ảnh tư liệu. |
Bình tĩnh, cảnh giác và thận trọng. Tôi cho tàu giảm tốc độ và tránh xa các mõm núi đá. Lưới ngụy trang trên các ụ súng máy được tháo gỡ ra để sẵn sàng chiến đấu. Phía mạn trái tàu một hòn đảo hiện ra rõ dần. Hòn Nưa! Đúng là Hòn Nưa rồi! Cửa bến Vũng Rô đã ở trước mặt. Tôi cho tàu chạy từ từ vào giữa Vịnh và thả trôi. Bốn bề yên tĩnh. Phía Đèo Cả thỉnh thoảng có một vài ánh đèn le lói rồi vụt tắt. Chiếc xuồng ba lá được thả xuống, đồng chí thuyền phó cùng hai chiến sĩ mang theo vũ khí chèo vào phía bờ tìm bắt liên lạc với bến. Tàu thả trôi chờ đợi. Thời gian nhích dần chậm chạp.
Mười phút, hai mươi phút rồi ba mươi phút trôi qua. Bỗng từ trong bờ có ánh đèn pin chớp lên rồi vụt tắt. Anh Quang dùng đèn pin phát tín hiệu nhận nhau và được phía trong bờ đáp lại đúng như quy định. Toàn tàu thật sự yên lòng mình đã vào đúng bến Vũng Rô.
Một chiếc ghe máy kéo theo xuồng ba lá cặp mạn. Các anh lên tàu. Phút gặp gỡ đầu tiên vô cùng vui mừng, xúc động. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn ngào không nói nên lời.
Đồng chí Chính trị viên Chiếu ngẫu hứng đọc mấy câu thơ:
... Ôi rất gần mà bấy lâu xa cách
Chỉ mấy ngày đường - vạch giới tuyến chia đôi
Mà hôm nay tôi đã đến đây rồi
Bằng con đường Hồ Chí Minh trên biển...
Anh Sáu Suyền và các anh ở bến Vũng Rô xúc động bắt tay tất cả anh em trên tàu. Không ngờ anh Sáu (ngoài kia tôi được chỉ thị vào gặp anh Sáu Râu) Bí thư Tỉnh ủy lại chính là anh Trần Suyền - ông Tú đầu tiên và duy nhất ở quê tôi lúc tôi còn nhỏ và cách nhà tôi không quá 30 phút đi bằng xe đạp.
Sau những phút vui mừng, bồi hồi xúc động, tôi trình bày với các anh ở bến: "Theo lệnh cấp trên, tàu tôi chỉ được ở lại đến 3 giờ sáng là phải rời khỏi bến". Tàu chở 80 tấn vũ khí và một số trang bị khác, làm sao huy động người đến bốc dỡ để tàu ra. Cầm chặt tay tôi, anh Sáu nghẹn ngào nói: "Chúng tôi tổ chức đón tàu các đồng chí từ mấy đêm nay, đêm nào cũng mong được gặp, đêm nay gặp rồi sao cứ bàng hoàng, xúc động, vừa mừng vừa lo, mừng vì ước mong đã trở thành sự thật, còn lo vì con tàu lớn quá, khối lượng hàng lại nhiều làm sao bốc dỡ trong mấy tiếng đồng hồ cho xong!".
Thấu hiểu nỗi bâng khuâng, suy nghĩ của các anh ở bến, tình cảm quê hương trong lòng chúng tôi thôi thúc phải tìm mọi cách để giải quyết. Chi ủy họp cùng cán bộ thuyền, có đồng chí Quang tham dự. Vấn đề đặt ra là: "Nếu cho tàu ra khỏi lãnh hải chờ tối mai vào hoặc ở lại bến, ngụy trang thật kín, tối mai bốc hết hàng rồi tàu ra!". Ý kiến trao đổi khá sôi nổi. Ý kiến của tôi là ta cho tàu ở lại bến. Điều quan trọng là làm sao ngụy trang thật tốt để che mắt được kẻ địch. Chi ủy viên, máy trưởng nói: "Như vậy có trái lệnh của cấp trên là tàu phải rời khỏi bến trước 3 giờ sáng không?". Bây giờ chỉ có một điều duy nhất làm cơ sở cho việc quyết định cho tàu ở lại hay ra là căn cứ chỉ lệnh giao nhiệm vụ cuối cùng của cấp trên: "Cho phép chi ủy-chi bộ và cán bộ tàu tùy tình hình cụ thể mà quyết định và chịu trách nhiệm trước cấp trên".
Cuộc họp kết thúc. Tôi gặp anh Sáu báo cáo là tàu sẽ ở lại bến để tối mai bốc hết hàng rồi ra và đề nghị các anh tìm chỗ giấu và ngụy trang tàu. Tôi cho chuyển ngay bức điện cuối cùng: "Tàu ở lại bến bốc hàng xong, tối mai ra!". Kết thúc liên lạc với Sở chỉ huy.
Đúng 4 giờ sáng hoàn thành xong việc cất giấu và ngụy trang tàu kín đáo. Cùng với bến, chúng tôi cho lực lượng chốt chặn các vị trí cần thiết. Lệnh chiến đấu được ban hành phong tỏa chặt các hướng ra vào Vũng Rô và nghiêm cấm việc đốt lửa nấu ăn trong khu vực tàu đậu. Tất cả đều ăn lương khô và uống nước suối. Việc khó khăn nhất là làm sao giải thích để ghe của ngư dân không vào suối lấy nước, rất dễ bị lộ. Anh Sáu bảo tôi yên tâm, việc đó đã giao cho bảo vệ bến và xã đội trưởng xã Hòa Hiệp rồi.
Mặt trời đi qua chậm chạp trên đỉnh đầu. Không gian yên tĩnh. Thỉnh thoảng có một vài chiếc máy bay bay qua vùng trời Vũng Rô theo hướng Nam-Bắc; tiếng xình xịch của đoàn tàu hỏa; tiếng rú ga, sang số của những đoàn xe quân sự nặng nề leo dốc Đèo Cả nghe chói tai. Trên tàu lúc này còn lại tôi, thuyền phó và máy trưởng-tổ rời tàu cuối cùng nếu phải chiến đấu, điểm hỏa phá hủy tàu.
Khoảng 14 giờ, anh Sáu và đồng chí cần vụ xuống tàu. Anh cho biết tình hình vẫn êm, mọi công tác chuẩn bị cho đêm nay bốc dỡ hàng đã tạm ổn. Lực lượng dân quân du kích và nhân dân các xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân đã được huy động, sẵn sàng làm nhiệm vụ. Chúng tôi uống nước và nói chuyện thân mật. Qua anh, tôi biết được tình hình tỉnh nhà sau bao năm xa cách. Tôi rất mừng trước khí thế cách mạng hừng hực của quê hương Phú Yên.
Tia nắng cuối cùng trong ngày đã tắt, hoàng hôn trùm xuống khá nhanh, thời điểm chuyển giao quyền làm chủ bến Vũng Rô cho chúng tôi - lực lượng cách mạng đã tới. Tôi cho anh em nhanh chóng tháo dỡ mạng ngụy trang và cơ động tàu về bãi chính để bốc hàng. Trên bờ, hàng trăm dân công đã chờ sẵn. Chiếc cầu tàu làm tạm bằng cây rừng được khẩn trương lắp ghép. Anh chị em dân công phấn khởi tràn xuống tàu. Không khí lao động khẩn trương, tấp nập. Ai lên tàu cũng muốn đi xem tất cả các nơi của "tàu mình", rồi mới chịu đi làm việc. Một nhóm chị em đứng gần hầm hàng chờ đến lượt mình vác, xầm xì bàn tán: "Làm sao nẫu biết nẫu dô!". Một chị to tiếng: "Tao giả chạt mặt mày, chớ tại sao nãy giờ mày đi đâu không làm!".
Chao ơi, mười mấy năm trời, hôm nay tôi mới được nghe lại tiếng "nẫu", "giả chạt" ở quê hương. Nó thân thương và vô cùng gần gũi, nó đã đưa tôi về với cội nguồn âm sắc quê hương, của một Phú Yên trù phú, có cánh đồng Tuy Hòa thẳng cánh cò bay, bên dòng sông Đà Rằng nước lững lờ trôi chảy.
Trên tàu, dưới bến người chạy đi, chạy lại tấp nập, rộn ràng, khẩn trương bốc dỡ, chuyển hàng. Tôi bưng ca nước mời anh chiến sĩ đang ngồi nghỉ sau khi bốc hàng dưới hầm tàu lên, quần áo ướt đẫm mồ hôi. Anh nói: "Đã mấy ngày nay đơn vị không còn gạo, anh em phải ăn trái sung!". Tôi nói: "Quê mình mà cũng thiếu gạo à?" Anh giải thích: "Gạo thì thiếu cha gì, nhưng gạo từ các xã Hòa Tân, Hòa Xuân... chuyển về đây phải qua đường số 1A thì khó khăn lắm. Bọn lính Nam Triều Tiên nó phục kích dai dẳng hai bên Đèo Cả, khó mà đi lọt qua được!". Hớp một ngụm nước, anh nói tiếp: "Nhưng không sao, kỳ này có súng đạn của các anh đưa vô, bọn tôi sẽ mở rộng địa bàn, giành dân, mà đã có dân là có gạo!". Tôi rơm rớm nước mắt, một mối cảm thông sâu sắc dâng trào. Những con người đã mấy ngày chỉ ăn trái sung mà khi tàu đến đã lao động bốc dỡ hàng với một nhiệt tình và tốc độ chưa từng thấy. Tôi đã đưa tàu vô miền Nam nhiều bến, với lượng hàng này ở những bến ấy phải bốc dỡ đến mấy ngày. Nhưng ở đây... sức mạnh nào đã khiến cho các anh chị em lập nên chiến công kỳ diệu ấy!
Hai giờ sáng, hàng đã bốc xong. Theo đề nghị của chúng tôi, các anh đã cho chuyển cát xuống để đằm tàu tạo nên sự ổn định khi tàu ra khơi gặp gió mùa Đông Bắc.
Tàu chuẩn bị rời bến. Phút chia tay không ai muốn nhưng rồi cũng đến. Anh Sáu cầm tay tôi lắc lắc nói: "Chúc các anh lên đường trở về miền Bắc an toàn, hẹn ngày gặp lại!". Những vòng tay ôm choàng lấy nhau, những dòng nước mắt thấm qua vai áo. Những chiếc khăn tay giơ lên vẫy chào con tàu đang từ từ rời bến Vũng Rô. Tôi dùng tay làm loa nói vọng vào bờ: "Tàu nẫu ra rồi, tàu nẫu lại dô!".
Con tàu từ từ rời bến Vũng Rô.
----------
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Kỳ 1
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Kỳ 2)
Tàu không số trên bến Vũng Rô (Kỳ 3)
(Còn nữa)
Truyện ký của TÔ PHƯƠNG