QĐND - Mở chiến dịch tiến công nhằm nhiều mục đích, trong đó tiêu diệt địch giữ vị trí quan trọng nhất để làm chuyển biến cục diện chiến trường hoặc tạo đột biến về chiến lược. Nhân lõi của nghệ thuật chiến dịch là tổ chức, điều hành đánh thắng các trận then chốt, then chốt quyết định. Thắng lợi của trận then chốt là một “cú hích” quan trọng, quyết định đến hoàn thành nhiệm vụ, mục đích chiến dịch. Chính vì vậy, khi tổ chức và thực hành tác chiến, người chỉ huy luôn coi trọng vận dụng mưu kế để bày binh, bố trận; nghi binh, đánh lừa nhằm buộc địch phải điều động lực lượng và bị động đối phó theo cách đánh của ta.

Lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ vận chuyển quân, vũ khí đạn dược cho chiến dịch, tạo ưu thế về lực lượng chiến dịch trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Ảnh tư liệu.

Tập trung lực lượng, phương tiện, tạo sức mạnh ưu thế, đánh chắc thắng từng trận then chốt đã trở thành nguyên tắc hàng đầu của tổ chức, sử dụng lực lượng chiến dịch và luôn được bộ tư lệnh các chiến dịch quán triệt, quyết tâm thực hiện. Bộ tư lệnh các chiến dịch đã vận dụng kết hợp, linh hoạt, sáng tạo các biện pháp như: Tổ chức lực lượng tiến hành nghi binh, thu hút sự chú ý và tập trung lực lượng của địch sang hướng, khu vực khác, tạo sơ hở trên khu vực, mục tiêu tác chiến chủ yếu; lực lượng chốt chặn, chia cắt để hạn chế, tiến tới loại trừ khả năng địch cơ động bằng đường bộ, không cho chúng kịp thời tăng cường lực lượng cho mục tiêu đang bị ta tiến công; lực lượng chiến đấu tạo thế, đánh chiếm các mục tiêu nhỏ xung quanh để cô lập mục tiêu chủ yếu. Lực lượng vũ trang địa phương được sử dụng kết hợp với lực lượng đặc công, biệt động, lực lượng luồn sâu, lót sẵn, thực hành đánh sâu, đánh hiểm, đánh rộng khắp, buộc địch phải phân tán lực lượng và bị động đối phó; tổ chức hỏa lực chặt chẽ kịp thời chế áp, khống chế các trận địa pháo binh, súng cối, hạn chế hoạt động bắn phá của không quân địch và tổ chức bảo đảm các mặt chu đáo để cơ động lực lượng nhanh, đánh đúng thời cơ.

Trong các trận then chốt tiến công địch phòng ngự trận địa, tỷ lệ tập trung lực lượng thường lớn hơn so với các trận đánh địch cơ động, tăng viện phản kích, ứng cứu giải tỏa (địch ngoài công sự). Chiến dịch Biên Giới năm 1950, về bộ binh ta hơn địch không nhiều, nhưng trận tiến công cụm cứ điểm Đông Khê, ta đã tập trung lực lượng ưu thế tuyệt đối hơn địch, với tỷ lệ bộ binh: 9/1; pháo binh: 6,5/1. Chiến dịch Tây Nguyên năm 1975, xét trên toàn chiến dịch ưu thế lực lượng ta không hơn địch, nhưng trận then chốt mở đầu chiến dịch tiến công thị xã Buôn Ma Thuột, ta đã tập trung lực lượng ưu thế tuyệt đối, với tỷ lệ bộ binh: 4,5/1; xe tăng: 5,5/1; pháo binh: 5/1. Bộ tư lệnh chiến dịch đã thực hiện thành công kế hoạch nghi binh tạo thế công phu, đánh mạnh như thật khiến cho địch ngày càng tin chắc hướng chủ yếu của ta là Bắc Tây Nguyên; tận dụng triệt để sai lầm và từng bước dẫn dắt tình huống để thu hút và giam chân lực lượng chủ lực cơ động của địch trên hướng Kon Tum, Plei-cu, làm cho Buôn Ma Thuột đã mỏng yếu lại càng thêm sơ hở. Đồng thời, ta tổ chức, sử dụng các cụm lực lượng, lập thế trận chia cắt địch thành nhiều cụm cô lập, tách biệt nhau; sử dụng pháo binh bắn phá sân bay Cù Hanh và sân bay Hòa Bình, bao vây, cô lập và “khóa chặt” thị xã Buôn Ma Thuột về đường bộ, làm cho địch muốn ứng cứu, chỉ còn cách duy nhất là đổ bộ đường không bằng máy bay trực thăng.

Cùng với tập trung lực lượng ưu thế, các chiến dịch đã sử dụng những đơn vị có kinh nghiệm, sở trường đánh công kiên để thực hiện trận then chốt mở đầu tiến công địch phòng ngự trong công sự; sử dụng các đơn vị có kinh nghiệm đánh vận động để đánh địch tăng viện, phản kích, ứng cứu giải tỏa. Khi địch đang phòng ngự ổn định, có tổ chức thì ta tập trung lực lượng hơn hẳn địch ở trọng điểm, đánh có chuẩn bị, phát huy sức mạnh tác chiến hiệp đồng binh chủng, đánh chắc thắng như các trận then chốt ở đợt 1 Chiến dịch Trị-Thiên năm 1972. Khi địch đang hoang mang, dao động, có biểu hiện tan rã hoặc rút chạy, ta đã chớp thời cơ, sử dụng lực lượng đánh thật nhanh, thật mạnh làm cho địch trở tay không kịp như Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.

Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai, đối tượng tác chiến của chiến dịch tiến công là quân địch có ưu thế về hỏa lực, khả năng cơ động, sử dụng vũ khí công nghệ cao và tác chiến điện tử rộng rãi. Chiến dịch tiến công dù diễn ra ở quy mô nào cũng vẫn phải tổ chức lực lượng đánh địch rộng khắp, kết hợp đánh nhỏ đánh vừa, đánh lớn; sử dụng lực lượng tập trung vào không gian, thời điểm quyết định đánh thắng trận then chốt. Vì vậy, ta cần phải tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo những giá trị lịch sử của nghệ thuật tạo sức mạnh ưu thế đánh trận then chốt của chiến dịch tiến công trong hai cuộc kháng chiến cho phù hợp với điều kiện tác chiến mới.

Đại tá, Thạc sĩ Hoàng Văn Quý