QĐND - Sau thắng lợi lớn của các chiến dịch và các đợt hoạt động quân sự trong năm 1970-1971 trên chiến trường ba nước Đông Dương, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ đứng trước nguy cơ thất bại. Để thúc đẩy chiều hướng phát triển giành thắng lợi có tính quyết định, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chủ trương mở các chiến dịch tiến công lớn của bộ đội chủ lực trong năm 1972, trên các hướng chiến lược quan trọng là: Miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị-Thiên.

Phân tích tình hình thực tế, ta chọn Trị-Thiên làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu để mở chiến dịch nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân sự của địch, phối hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, tiêu diệt và làm tan rã phần lớn lực lượng bảo an dân vệ, đánh bại kế hoạch “bình định” của địch, giải phóng phần lớn địa bàn Trị-Thiên, có điều kiện giải phóng toàn bộ hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên. Chiến dịch còn thu hút lực lượng địch, phối hợp với các chiến trường toàn miền Nam giành thắng lợi cho cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Phương châm chiến dịch là đánh tiêu diệt địch ở dã ngoại, đánh điểm, đánh những trận đánh quyết định, tiêu diệt từng trung đoàn, lữ đoàn địch, phá vỡ tuyến phòng ngự, nhanh chóng phát triển vào tung thâm, không cho địch điều động lực lượng đối phó và co cụm; phát huy cao độ uy lực của các loại binh khí, kỹ thuật hiện có, đánh tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, coi trọng đánh nhỏ, sâu hiểm trong lòng địch bằng lực lượng tinh nhuệ; hiệp đồng chặt chẽ các hướng, kết hợp giữa tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng và binh vận.

Quân Giải phóng đánh chiếm căn cứ Đầu Mầu trong chiến dịch Trị - Thiên 1972. Ảnh tư liệu

Chiến dịch tiến công Trị-Thiên bắt đầu từ ngày 30-3-1972, kết thúc 27-6-1972. Thắng lợi chiến dịch là do ta đã vận dụng tốt nghệ thuật tạo ưu thế và duy trì ưu thế trong quá trình chiến dịch cho đến khi giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Vận dụng linh hoạt, phù hợp các phương pháp tác chiến tiến công kết hợp đột phá thọc sâu với bao vây chia cắt, vu hồi đánh địch trên toàn bộ chiều sâu phòng ngự của địch, kết hợp tiêu diệt địch với phá vỡ thế phòng ngự của chúng, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng trên những địa bàn đông dân cư. Trong chiến dịch, ta tiến hành tập kích hoả lực mạnh đáp ứng yêu cầu bao vây, tiến công tiêu diệt địch trong thời gian ngắn, tiến công hiệp đồng binh chủng, đột phá liên tục, đánh đến đâu bám trụ đến đó; kết hợp với thọc sâu, chia cắt, nhằm tiêu diệt quân địch co cụm lớn, có xe tăng thiết giáp làm nòng cốt; thọc sâu, tiến công nhanh trong hành tiến, nhanh chóng đánh thẳng vào tung thâm tập đoàn phòng ngự của địch.

Bộ tư lệnh chiến dịch đã chọn đúng hướng, mục tiêu tiến công chủ yếu là hướng tây và hướng tây bắc, hướng này tuy địch tương đối mạnh, có công sự kiên cố và tổ chức hệ thống phòng thủ hoàn chỉnh, vững chắc. Tuy nhiên, địch cũng có điểm yếu là phòng ngự trong thế bị động, phòng ngự bên ngoài mạnh nhưng bên trong sơ hở; tinh thần chiến đấu của binh lính kém. Về ta, đã chuẩn bị được hệ thống đường chiến lược, chiến dịch để triển khai lực lượng lớn, nhất là binh khí kỹ thuật và có điều kiện bảo đảm vật chất cho tác chiến chiến dịch. Trên hướng tiến công chủ yếu, ta xác định các mục tiêu chủ yếu: Điểm cao 544, Động Toàn, điểm cao 241. Hướng nam là hướng chia cắt chiến dịch, cắt nguồn tiếp tế vận chuyển của địch. Thực hiện quyết tâm chiến dịch, giai đoạn đầu từ 30-3-1972 đến 9-4-1972, ta thực hành đột phá liên tục kết hợp với thọc sâu, vu hồi, phá vỡ toàn bộ hệ thống phòng ngự vòng ngoài của địch, diệt một bộ phân sinh lực địch gồm ban chỉ huy và cơ quan Trung đoàn 54, Sư đoàn Bộ binh 3, giải phóng hai huyện Do Linh và Cam Lộ, buộc địch phải bỏ tuyến phòng ngự Đường số 9 co về giữ Đông Hà, Ái Tử, tăng cường lực lượng phòng ngự. Từ ngày 10-4 đến 20-4-1972, ta duy trì các hoạt động đánh nhỏ, vừa và làm công tác chuẩn bị; từ ngày 27-4-1972 đến 1-5-1972 trên hướng tây, ta sử dụng hai sư đoàn (304, 308) đột phá, kết hợp với Tiểu đoàn 33 Đặc công và Trung đoàn Bộ binh 48 thọc sâu chia cắt địch; Trung đoàn Bộ binh 27 và 1 tiểu đoàn xe tăng vu hồi đánh bên sườn và phía sau thị xã Quảng Trị; Sư đoàn 324 cắt Đường số 1A tại cầu Bến Đá, tiêu diệt làm tan rã toàn bộ quân địch và truy kích đến tận sông Mỹ Chánh, ngày 2-5-1972, ta giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Trên hướng tây Thừa Thiên, ta sử dụng hai trung đoàn tiến công địch ở Cù Mông, điểm cao 620, vây lấn Động Tranh, chặn đánh hai tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung đoàn 54 địch lên ứng cứu, thu hút và giam chân Sư đoàn Bộ binh 1 quân Sài Gòn. Ở đồng bằng, lực lượng địa phương diệt chi khu Hương Trà, Nam Hòa, đẩy mạnh hoạt động diệt ác, trừ gian trên 6 huyện của tỉnh Thừa Thiên.

Từ ngày 3-5 đến 19-6-1972, ta liên tục thực hiện hoạt động nhỏ, vừa, cơ động Sư đoàn Bộ binh 324 về Đường số 12, đồng thời chuẩn bị phát triển tiến công về hướng Thừa Thiên-Huế. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 20-6-1972, ta bắt đầu tiến công, qua 6 ngày đêm chiến đấu, ta đã tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, nhưng các hướng đều bị chặn lại, không thực hiện được kế hoạch, ngày 27-6-1972, Bộ tư lệnh quyết định kết thúc chiến dịch.

Chiến dịch Trị-Thiên thắng lợi, khẳng định nghệ thuật chọn hướng, mục tiêu tiến công chủ yếu đúng đắn, sáng tạo của ta, góp phần tạo nên thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Bài học kinh nghiệm từ chiến dịch còn nguyên giá trị, cần được nghiên cứu vận dụng, phát triển phù hợp trong điều kiện và đối tượng tác chiến mới.

Đại tá ĐÀO VĂN ĐỆ