QĐND Online - Đại đoàn 316 trước đây - Sư đoàn 316 hiện nay, được thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1951 tại làng Cốc Lùng, xã Bình Trung, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, trên cơ sở sáp nhập các trung đoàn 98, 174, 176 và một số đơn vị binh chủng.
Trung đoàn 98 thành lập ngày 16/7/1946 tại Hồng Quảng. Ngay từ ngày đầu thành lập, trung đoàn đã gắn bó chặt chẽ với quân và dân các dân tộc khu Đông Bắc, chiến đấu ngoan cường, gây cho địch nhiều tổn thất, góp phần giữ vững và mở rộng vùng giải phóng.
Trung đoàn 174 thành lập ngày 19/8/1949 với tên gọi Trung đoàn Cao - Bắc - Lạng; là con đẻ của nhân dân các dân tộc Việt Bắc hình thành từ các tiểu đoàn mạnh của các trung đoàn Cao Bằng (74), Bắc Cạn (72), Lạng Sơn (28) và là một trong hai trung đoàn chủ lực đầu tiên trực thuộc Bộ Tổng chỉ huy. Trung đoàn đã chiến đấu và lập nhiều chiến công vang dội trên đường số 4, đồng thời tiêu diệt và làm tan rã 2 vạn quân Tưởng, góp phần đập tan âm mưu câu kết giữa tàn quân Tưởng và thực dân Pháp trên biên giới. Tiếp đó, trong chiến dịch Biên Giới năm 1950, với chiến thắng Đông Khê, trung đoàn đã mở màn cho sự toàn thắng của chiến dịch. Liền sau đó, trung đoàn còn vinh dự được bảo vệ Bác Hồ qua biên giới đi thăm Liên Xô, Trung Quốc và rồi đón Người về nước ở Trùng Khánh (Cao Bằng).
Trung đoàn 176 thành lập ngày 15/2/1951 tại Lạng Sơn. Ra đời ngay sau chiến thắng vang dội của chiến dịch Biên Giới, trung đoàn 176 đã phát huy và giữ vững bản chất, truyền thống của lực lượng vũ trang cách mạng. Các đơn vị trong trung đoàn đều có bề dày thành tích trong chiến đấu và xây dựng như tiểu đoàn 888, tiểu đoàn 970, tiểu đoàn 999, tạo dựng nên truyền thống “Đoàn kết, khiêm tốn, khắc phục khó khăn gian khổ, vừa chiến đấu vừa xây dựng, tích cực làm công tác vận động quần chúng”.
Ngay sau ngày thành lập, các đơn vị trong Đại đoàn bước vào một cao trào học tập chính trị, quân sự sôi nổi. Cán bộ, chiến sĩ miệt mài rèn luyện trên thao trường, trên bãi tập. Kết quả là các đơn vị đều có chuyển biến tiến bộ về nhận thức chính trị tư tưởng và bản lĩnh ý chí chiến đấu. Sức mạnh của Đại đoàn ngày càng đươc khẳng định, đáp ứng kịp thời với yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
Tháng 8/1951, Đại đoàn thực hiện cuộc hành quân lớn đầu tiên, di chuyển về Hữu Lũng, Phổng Kép. Ngày 10/9/1951 nhận nhiệm vụ bám sát “vành đai trắng” ở Bắc Giang. Ngay từ những ngày đầu ra quân, trung đoàn 98 của Đại đoàn đã liên tiếp gặp và đánh địch giành thắng lợi ở Núi Ngọc, Thái Đào, Cầu Lỗ, Thanh Rã, Dĩnh Kế. Ngày 8/10/1951, quân ta phục kích đánh tan một trận càn lớn của địch ở Phi Mỗ, Thủ Độ. Thắng lợi này đã cổ vũ tinh thần nhân dân, khoét sâu chỗ yếu của địch, từ đó ta chủ trương đánh thẳng vào các lực lượng Âu Phi trên đường 13, mở cửa đi vào sau lưng địch.
Tiếp đó, Trung đoàn 98 cùng với lực lượng địa phương Bắc Ninh, Bắc Giang đã đánh tan nhiều cuộc càn quét của địch và áp sát vào tuyến phòng thủ của chúng, buộc địch co cụm trong các đồn bốt.
Phối hợp với các đơn vị bạn trong chiến dịch Hòa Bình, Đại đoàn 316 tiến quân vào vùng sau lưng địch, chiến đấu bảo vệ và mở rộng vùng giải phóng. Trong đợt hoạt động này, các đơn vị trong Đại đoàn đã tiêu diệt 21 vị trí địch có từ một đại đội đến một tiểu đoàn quân chính quy, bức hàng 19 vị trí khác, đánh 31 trận phục kích và phản kích quân địch càn quét, trong đó có 7 trận quy mô lớn từ 2 đến 20 tiểu đoàn địch, diệt 3.937 tên, bắt sống 599 tên, phá hủy 15 xe tăng và xe bọc thép, 17 xe tải, thu nhiều trang thiết bị; góp phần mở rộng và củng cố vùng giải phóng, đánh bại âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của địch, đẩy chúng ngày càng lún sâu vào thế bị động chiến lược. Với chiến công ấy, Đại đoàn 316 đã được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba.
Từ những đơn vị chỉ quen đánh ở rừng núi, nay tác chiến ở đồng bằng, vừa đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn có hiệp đồng binh chủng, đánh cả ngày lẫn đêm, diệt cứ điểm, đánh địch càn quét quy mô lớn, Đại đoàn đã dũng cảm chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, chấp hành nghiêm kỷ luật, khiêm tốn, đoàn kết hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đợt ra quân lớn này đã để lại cho Đại đoàn bài học quý về sự phối hợp chiến đấu giữa ba thứ quân, về tình đoàn kết quân dân, phát huy thế trận chiến tranh nhân dân, đặc biệt là ở vùng sau lưng địch.
Thắng lợi là to lớn, nhưng tổn thất, hy sinh cũng không nhỏ. Những thành, bại của Trung đoàn 98 trên chiến trường Bắc Ninh, của Trung đoàn 174 trong những trận công đồn đều là những bài học quý cho những chặng đường chiến đấu mới mà Đại đoàn đang tiến tới.
Sau chặng đường dài hành quân lên Tây Bắc, vượt qua nhiều núi cao, rừng rậm, sông suối quanh co cùng với tất cả vũ khí, trang bị, lương thực bảo đảm cho trận đánh mới, lại bị máy bay địch thường xuyên đánh phá, nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh trên đường hành quân, Đại đoàn 316 đã bước ngay vào chiến dịch bằng việc thực hiện các trận đánh ở Bản Trại và Bản Mo và giành thắng lợi lớn. Đặc biệt, chiến thắng Bản Mo đã tạo không khí phấn khởi, tin tưởng trong toàn Đại đoàn, đồng thời khẳng định sự tiến bộ vững chắc của Trung đoàn 98 để phát huy truyền thống giành thắng lợi vẻ vang.
Chiến dịch Tây Bắc kết thúc thắng lợi qua hai đợt chiến đấu. Ta diệt và bắt hơn 6.000 tên địch, giải phóng nhân dân cùng một vùng đất đai rộng lớn. Việt Bắc, Tây Bắc được nối liền tạo nên thế và lực mới cho cuộc kháng chiến. Trong chiến công chung ấy, Đại đoàn 316 đã góp phần xứng đáng, diệt và bắt sống 1.602 tên địch, tiêu diệt gọn hai tiểu khu, giải phóng hoàn toàn hai huyện Quang Huy và Mộc Châu… Cán bộ và chiến sĩ Đại đoàn đã không ngừng rèn luyện, phát huy truyền thống chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh, đoàn kết chặt chẽ với nhân dân, với đơn vị bạn, nêu cao quyết tâm, kiên cường chiến đấu tiêu diệt địch.
Thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả của Đảng, quân đội giao phó với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, từ Tây Bắc, Đại đoàn 316 đi thẳng vào chiến dịch Thượng Lào. Đây là lần đầu tiên lực lượng lớn của ta sang giúp bạn nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh chiến đấu của liên minh Lào-Việt chống kẻ thù chung.
Tham gia chiến dịch, Đại đoàn 316 chia thành hai bộ phận. Một đóng quân ở Yên Châu, Mộc Châu để bảo vệ hậu phương chiến dịch. Một trực tiếp đánh địch trên chiến trường. Cả hai bộ phận đều đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.
Chiến dịch Thượng Lào giành được thắng lợi to lớn. Trung đoàn 98 của Đại đoàn và các đơn vị bạn đã sát cánh kề vai kiên cường chiến đấu, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch gồm 3 tiểu đoàn và 11 đại đội địch (bằng 1/5 quân số địch ở Thượng Lào), san bằng và bức rút hơn 30 vị trí địch, giải phóng một vùng rộng lớn gần 4 vạn ki-lô-mét vuông. Căn cứ kháng chiến của Lào được mở rộng chạy dài từ sông Mã đến vùng phụ cận Luông Pha-băng, từ giáp Điện Biên Phủ đến nam đường số 7. Sầm Nưa được giải phóng và trở thành căn cứ trung tâm đầu não của cách mạng Lào, là thủ đô kháng chiến của bạn.
Với thắng lợi này, Trung đoàn 98 cùng với các đơn vị bạn bằng tình cảm quốc tế trong sáng và tinh thần chiến đấu dũng cảm đã để lại trong quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào những ấn tượng tốt đẹp về bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đối với Việt Nam, chiến thắng Thượng Lào đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc củng cố và bảo vệ vùng giải phóng Tây Bắc. Phòng tuyến phía tây của địch từ Lai Châu qua Nà Sản xuống Sầm Nưa, Xiêng Khoảng bị chặt đứt một quãng dài.
Qua thực tế đợt hoạt động này, các đơn vị của Đại đoàn đã có bước tiến mới, bộ đội đã thích ứng được với những cuộc hành quân liên tục dài ngày, vừa hành quân, vừa chiến đấu, biết xử trí linh hoạt nhiều tình huống phức tạp để chủ động giành thắng lợi.
Hoàn thành nghĩa vụ quốc tế trở về, Đại đoàn bước vào cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 bằng đòn tiến công đầu tiên là giải phóng Lai Châu. Trong 12 ngày đêm, Đại đoàn đã liên tục đánh địch trên một chặng đường dài hơn 300km. Với quyết tâm chiến đấu cao, tốc độ tiến công nhanh, bộ đội ta đã băng rừng, vượt suối, tìm địch mà đánh, thiếu cơm thì ăn rau rừng, củ mài, kiên cường chiến đấu, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch với 24 đại đội, 3 tiểu đoàn bị đánh thiệt hại nặng, thu rất nhiều vũ khí, trang bị của địch.
Sau khi tiêu diệt địch giải phóng Lai Châu, Đại đoàn 316 tiến về áp sát Điện Biên Phủ và tổ chức ngay trận tập kích pháo binh vào sân bay Mường Thanh, tiêu diệt 1 máy bay địch, buộc chúng phải vội vã sơ tán số máy bay còn lại.
Tiếp đó, trong các trận chiến đấu ác liệt kéo dài 32 ngày đêm phòng ngự Đồi Xanh, cán bộ và chiến sĩ tiểu đoàn 439 (Trung đoàn 98) của Đại đoàn đã lập công xuất sắc: đánh bại 6 lần tiến công của địch, tiêu diệt 63 tên, bắn rơi 2 máy bay, bắn hỏng 1 xe tăng của chúng. Chiến thắng Đồi Xanh đã chấm dứt cố gắng cuối cùng của địch hòng nới rộng vòng vây chung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Đại đoàn 316 đã cùng với các đơn vị bạn chiến đấu kiên cường, anh dũng trong suốt 56 ngày đêm của chiến dịch, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, biến tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà giặc Pháp khoe khoang là “pháo đài không thể công phá” nhanh chóng trở thành “chảo lửa” thiêu đốt tất cả những tham vọng cùng những nỗ lực cố gắng cuối cùng của đội quân xâm lược, lập nên một “Điện Biên Phủ chấn động địa cầu”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao nhất kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta, góp phần quyết định vào thắng lợi của Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương. Trong chiến dịch lịch sử này, Đại đoàn 316 đã có nhiều đóng góp hy sinh to lớn. Những trận đánh ác liệt ở A1, C1 còn in đậm và vang vọng mãi chiến công của Trung đoàn 98, Trung đoàn 174 và được ghi vào lịch sử chiến đấu của quân đội ta như là một mẫu mực của lòng quả cảm, đức hy sinh và tinh thần sáng tạo vượt mọi khó khăn để giành thắng lợi.
Tính chung trong toàn chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, Đại đoàn 316 đã đánh 17 trận tiến công và phòng ngự với quy mô tương đối lớn, cùng nhiều trận vận động phục kích, tập kích, tiêu diệt 3.300 tên, bắt sống và gọi hàng 6.500 tên, thu và phá hủy 3.200 súng các loại, bắn rơi và bắn cháy 11 máy bay, tiêu diệt 3 xe tăng, 3 xe ô tô, cùng nhiều phương tiện chiến tranh khác của địch.
Tổng cộng, từ ngày thành lập đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1954, Đại đoàn 316 đã tham gia 5 chiến dịch từ Bắc Giang đến Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào và đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Lúc là lực lượng phối hợp, lúc là lực lượng chủ công, khi là nghi binh chiến lược, ở đâu và nhiệm vụ nào, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn đều nêu cao quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, hoàn thành nhiệm vụ; với 17 trận đánh lớn, diệt và bắt 15.000 tên địch, bắn rơi 13 máy bay, phá hủy và tiêu diệt 42 xe các loại, thu nhiều vũ khí, trang bị là những chiến công cụ thể mà Đại đoàn đã làm nên từ ngày thành lập cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trung đoàn 98, Trung đoàn 174 vinh dự được nhận cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Các đồng chí La Văn Cầu, Nông Văn Vượng, Bế Văn Đàn, Triệu Văn Báo, Lý Văn Mưu, Đàm Văn Ngụy, Đặng Đức Song được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Quân đội. Sáu đồng chí được bầu là Chiến sĩ thi đua toàn quốc. Đại đoàn được tặng 4 Huân chương Quân công hạng Ba và 1 Huân chương Quân công hạng Nhất, cùng nhiều cán bộ, chiến sĩ được khen thưởng.
Đây là chặng đường đầu tiên trong lịch sử ra đời, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Đại đoàn. Trong giai đoạn này Đại đoàn đã hoạt động trên một địa bàn rộng lớn từ Đông Bắc, Việt Bắc tới Tây Bắc và chiến trường nước bạn, từ miền núi đến đồng bằng trung du Bắc Bộ, vừa đánh mạnh sau lưng địch, vừa chiến đấu giành thắng lợi quyết định trên chiến trường. Có thể coi đây là những năm tháng đã làm nên tên tuổi và sức vóc của Đại đoàn.
Kết quả trong chiến đấu và xây dựng đó sẽ là nguồn sức mạnh vật chất và tinh thần vô cùng to lớn để Đại đoàn bước vào một chặng đường mới của lịch sử dân tộc với nhiều thử thách mới và cũng hứa hẹn nhiều chiến công mới.
(Còn tiếp)
Đăng Vinh
(Theo cuốn”Lịch sử Sư đoàn 316”)