Trên toàn miền Nam, lực lượng pháo binh tham gia cuộc Tổng tiến công năm 1975 với số lượng lớn. Tính từ ngày 18-1-1975, (chiến dịch Tây Nguyên 129 khẩu pháo cỡ lớn, 94 khẩu pháo xe kéo, 35 khẩu pháo mang vác ĐKB, H12, cối 120mm) và 349 khẩu pháo, cối nhỏ.

Chiến dịch Huế-Đà Nẵng có 384 khẩu (103 khẩu pháo xe kéo, 281 khẩu pháo mang vác, không kể pháo cối nhỏ).

Chiến dịch Hồ Chí Minh có 509 khẩu (241 khẩu pháo xe kéo, 88 khẩu pháo mang vác, không kể pháo cối nhỏ). Lượng vật tư kỹ thuật, đạn dược tiêu thụ rất lớn, thời gian lại rất khẩn trương chỉ trong 55 ngày đêm với 3 chiến dịch lớn nên công tác kỹ thuật gặp không ít khó khăn, đặc biệt là công tác bảo đảm kỹ thuật và bảo đảm đạn. Để giải quyết khó khăn này, thực hiện chủ trương lấy pháo, đạn địch đánh địch.

Không ngừng rèn luyện bản lính pháo thủ và kỹ chiến thuật pháo binh

Trong chiến dịch Tây Nguyên, lực lượng kỹ thuật pháo binh cùng với các lực lượng khác đã thu hồi đưa vào sử dụng nhiều xe pháo, đạn dược và khí tài của địch. Nhiều phân đội pháo binh chuyển từ pháo 122mm sang pháo 105mm, 155mm, dùng hàng ngàn viên đạn, hàng vạn lít xăng dầu chiến lợi phẩm, do đó dù phải truy kích địch xa tuyến hậu cần cơ bản hàng trăm kilômét vẫn bảo đảm đủ xăng dầu, đạn dược, sức kéo để cơ động theo sát đội hình bộ binh và đủ hoả lực chiến đấu kịp thời. Các đơn vị còn mạnh dạn sử dụng tù, hàng binh (có chọn lọc) để khai thác, sử dụng các phương tiện, xe kéo pháo, khí tài hệ 2, phát hiện các kho đạn, kho xăng dầu của địch. . .

Trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, trên hướng Quân khu 5 đã thu hồi và đưa vào sử dụng 5.963 viên đạn pháo địch, chiến 79% số đạn pháo xe kéo tiêu thụ trong chiến dịch, pháo binh Quân khu Trị Thiên đã sử dụng 15 khẩu pháo xe kéo, 6.000 viên đạn địch để đánh địch. Riêng Lữ đoàn 164 Quân đoàn 2 sử dụng nhiều xe chiến lợi phẩm tăng sức cơ động từ 25% lên 100% bảo đảm được yêu cầu cơ động thần tốc vào tham gia giải phóng Sài Gòn.


Trong chiến dịch Tây Nguyên có thể nêu lên 3đòn hoả lực pháo binh.
Đòn hoả lực thứ nhất: Hoả lực pháo binh chi viện bộ binh, xe tăng thọc sâu đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là đòn hoả lực được chuẩn bị kỹ cho trận tiến công quy mô tương đối lớn, dùng hoả lực pháo bắn chuẩn bị, bảo đảm cho bộ binh xe tăng trên nhiều hướng; mũi thọc sâu đánh chiếm cùng lúc những mục tiêu chủ yếu trong thị xã Buôn Ma Thuột.

Theo kế hoạch giờ "G" là 06.00h ngày 10-3-1975 nhưng thời tiết xấu nên đến 07 giờ 15 phút, pháo binh mới bắt đầu thực hành hoả lực chuẩn bị với gần 5.000 viên đạn cỡ lớn cùng lúc bắn vào 3 mục tiêu chủ yếu là sở chỉ huy sư 23, sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc, căn cứ liên hiệp quân sự và 7 trận địa pháo địch. Đạn trúng mục tiêu ngay loạt đạn đầu, diệt nhiều địch, gây cháy, nổ làm tê liệt hoàn toàn các trận địa pháo địch. . . khoảng gần trưa bộ binh và xe tăng ta đã chạm địch ở các cứ điểm ngoại vi thành phố. Đến 15.00h quân ta đánh chiếm được sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc, khu căn cứ liên hợp quân sự và một phần sở chỉ huy sư đoàn 23. Căn cứ này địch tổ chức phòng ngự khá kiên cố, quân ta phải tổ chức lại để tiến công, đến 06.00 ngày 11 tháng 3 năm 1975 sau đợt hoả lực pháo bắn chuẩn bị lần thứ hai với mật độ đạn lớn, kết hợp với pháo bắn thẳng của pháo 85mm , pháo mang vác. . . đến 09.00h ta làm chủ sở chỉ huy sư 23 ngụy, và tới 11.00 cùng ngày quân ta đã làm chủ hoàn toàn Buôn Ma Thuột.

Đòn hoả lực thứ hai: Pháo binh cơ động linh hoạt, bám sát và chi viện kịp thời cho bộ binh, xe tăng đánh phản kích của địch tại Phước An. Đậy là trận mà hoả lực pháo binh phải đánh nhiều mục tiêu ngoài kế hoạch, lại phải di chuyển trận địa nhưng do có dự kiến từ trước và tổ chức được nhiều đài quan sát luồn sâu bám sát đội hình chiến đấu của Sư đoàn bộ binh 316 và Sư đoàn bộ binh 10, nên ngày 12-3-1975 khi trung đoàn 45 ngụy đổ bộ bằng trực thăng xuống điểm cao 581 định cùng trung đoàn 53 và liên đoàn biệt động số 21 tổ chức phản kích thì lập tức bị hoả lực các cụm pháo chiến dịch của ta bắn trúng, bắn mạnh chia cắt đội hình của chúng, tạo điều kiện cho bộ binh, xe tăng liên tiếp trong những ngày 13 đến 15 tháng 3 tiêu diệt từng trung đoàn địch, đánh chiếm căn cứ trung đoàn 53 ngụy, số còn lại phải rút chạy về Phước An.

Trung đoàn bộ binh 24 đã dùng xe cơ giới truy kích có xe tăng tăng cường và được cụm pháo 675 trực tiếp chi viện; sáng 16-3-1975 sau đợt tập kích hoả lực pháo Đ74 của cụm pháo 675, các mũi bộ binh xe tăng Trung đoàn 24 của ta đã đánh chiếm quận lỵ Phước An tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, thừa thắng quân ta đánh chiếm quận lỵ Chư Pảh tiêu diệt tàn quân của sư đoàn 23 ngụy và đập tan toàn bộ kế hoạch phản kích của địch vào Buôn Ma Thuột.

Pháo binh Binh đoàn Cửu Long hôm nay

Đòn hoả lực thứ ba: Pháo binh vừa cơ động vừa chuẩn bị chi viện Sư đoàn 320A hợp vây tiêu diệt toàn bộ quân địch tháo chạy khỏi Tây Nguyên.

Từ chiều 16 tháng 3, ta đã phát hiện quân địch từ 2 tỉnh Kon Tum và PLây Cu, rút theo đường 7 qua Cheo Reo về đồng bằng. Bộ chỉ huy mặt trận lệnh cho Sư đoàn 320A có Trung đoàn 95 làm dự bị được tăng cường một tiểu đoàn xe tăng và cụm pháo binh 675 bám chặt và tiêu diệt gọn toàn bộ quân địch rút chạy khỏi Tây Nguyên. Kế hoạch tác chiến của Sư đoàn 320A như sau: Trung đoàn 66 dùng xe ô tô cơ động được tăng cường 2 khẩu 105mm và 2 khẩu 85mm có nhiệm vụ chia cắt đội hình địch trên đường 7. Trung đoàn 64 làm nhiệm vụ luồn sâu đánh chiếm 1 đoạn đường 7, phía đông nam thị xã Cheo Reo, chặn đầu cuộc hành quân rút chạy của địch. Trung đoàn 48 đảm nhiệm tiến công trên hướng chủ yếu được tăng cường trung đoàn pháo của sư đoàn. Trung đoàn pháo 675 nhanh chóng cơ động chiếm lĩnh trận địa bắn ngay vào Cheo Reo.

16.00h ngày 17 tháng 3 năm 1975, tiểu đoàn đi đầu của Trung đoàn 64 đã chạm địch trên đường số 7, ngay lập tức quân ta tiêu diệt đoàn xe 8 chiếc và làm chủ đường số 7 phía đông nam Cheo Reo 4 - 5km. Cùng ngày 17 tháng 3 sau khi bộ binh đánh chiếm Chư Pảh mở đường cho pháo xe kéo cơ động và chiếm lĩnh trận địa, đến 11 giờ 30 phút ngày 18 tháng 3, pháo Đ74 đã bắt đầu rót đạn vào các mục tiêu trong thị xã Cheo Reo gây cho địch hoang mang rối loạn; 18.30h quân ta đã chiếm sân bay Cheo Reo; cụm pháo của Trung đoàn 48 bắt đầu phát huy hoả lực, pháo 85mm cùng xe tăng tiêu diệt các ổ đề kháng của địch, chi viện cho bộ binh liên tiếp đánh chiếm trại Ngô Quyền, ty cảnh sát, tiền khu quân sự và đến sáng ngày 19 tháng 3 quân ta làm chủ hoàn toàn Cheo Reo, bắt gọn 6 liên đoàn biệt động, 3 thiết đoàn xe tăng, 6 tiểu đoàn pháo 155mm và l05mm; 3 tỉnh Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng.



Đây là trận tác chiến hiệp đồng quy mô lớn, diễn biến phức tạp, nhiều nhiệm vụ bắn ngoài kế hoạch, trên một chính diện rộng, tung thâm sâu; địa hình rừng núi, đường sá ít nhưng do có sự chuẩn bị chu đáo, xây dựng lực lượng pháo đủ cho các cấp trước chiến dịch nên pháo binh ta đã phát huy mạnh mẽ sức mạnh hoả lực của mình.

Trong việc tổ chức các cụm pháo, ta rất linh hoạt như cụm pháo chiến dịch trong 2 đòn hoả lực 1 và 2, Bộ chỉ huy luôn luôn nắm quyền sử dụng đến khi quân địch rút chạy, Bộ chỉ huy đã nhanh chóng chuyển thuộc tất cả cho các sư đoàn sử dụng do đó việc hiệp đồng tác chiến bộ - pháo kịp thời chắc chắn và hiệu quả. Về cách bắn luôn coi trọng lối bắn trực tiếp của pháo xe kéo đi cùng bộ binh, xe tăng trong chiến đấu tiến công, đây cũng là truyền thống đẹp sử dụng pháo xe kéo của mặt trận Tây Nguyên.

Lữ văn ( Luợc thuật)