Tàu ngầm mi-ni.
Vũ khí, khí tài dưới nước chủ yếu trang bị cho lực lượng làm nhiệm vụ đặc biệt, người nhái... dùng để trinh sát, chiến đấu dưới nước, tiến công bất ngờ các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, các mục tiêu quân sự ven biển, trên biển. Trong các cuộc chiến tranh thế giới, lực lượng biệt kích hải quân, người nhái thực hiện nhiều trận đánh lớn, gây thiệt hại nặng nề cho đối phương. Ở nước ta, trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đặc công nước với trang bị vũ khí còn thô sơ nhưng đã lập nhiều chiến công lớn, đánh chìm nhiều tàu chiến và các cơ sở hậu cần-kỹ thuật ven biển, trên biển của địch.

Các nước như LB Nga, Mỹ, NATO tập trung nghiên cứu phát triển các loại vũ khí cầm tay tiên tiến để trang bị cho lực lượng người nhái và lực lượng tác chiến đặc biệt của hải quân. Lực lượng đặc nhiệm hải quân Nga hiện đang trang bị các loại vũ khí tác chiến dưới nước tiên tiến là súng trường tự động APS và súng ngắn SPP-1. Súng trường APS dùng để tập kích các căn cứ hải quân, tuần tra, chiến đấu với người nhái, ngăn chặn những kẻ đột nhập từ dưới nước. Súng bắn ở chế độ tự động và phát một, tầm bắn 100m, băng đạn 26 viên. Súng APS bắn hai loại đạn MPS tiêu chuẩn và đạn chiếu sáng dưới nước MPST. Súng ngắn bắn dưới nước SPP-1 là vũ khí tự vệ, tầm xa 20m, bắn phát một. Băng tiếp đạn của súng chứa 4 viên, cỡ đạn 4,5mm, chiều dài của đạn là 13,2mm. Lực lượng đặc nhiệm người nhái của hải quân Đức được trang bị súng trường tự động nhiều nòng do hãng H&K chế tạo. Mỹ phát triển thế hệ súng tiểu liên dưới nước MP-5N cỡ nòng 9mm. Súng MP-5N trang bị cho người nhái, lực lượng biệt kích ngầm SEAL. Các lực lượng tác chiến ngầm của Mỹ còn được trang bị súng M14 có khả năng chiến đấu với mục tiêu cự ly xa hàng trăm mét, các loại súng ngắn bắn dưới nước, mìn M-129 nặng 27kg do một người nhái kéo và mìn M-159 do hai người nhái kéo...

Tàu ngầm cá nhân và tàu ngầm mi-ni trang bị cho tổ đội biệt kích ngầm, người nhái ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đặc nhiệm hải quân Anh đang sử dụng hai loại tàu ngầm cá nhân SSK-96 và SSK-180 do Hãng chế tạo vũ khí dưới nước KSA chế tạo. Cả hai loại tàu này đều có khả năng lặn sâu 100m, tốc độ chạy ngầm từ 2 đến 5 hải lý/giờ, phạm vi hoạt động khi lặn là 10km. Hải quân Mỹ chú trọng nghiên cứu phát triển các thế hệ tàu ngầm mi-ni, lượng giãn nước nhỏ phục vụ tác chiến ven bờ biển, trang bị cho lực lượng đặc nhiệm và chuyên chở người nhái. Đặc nhiệm hải quân Mỹ hiện có tàu ngầm ASDS, lượng giãn nước 200 tấn, dài 16m, tốc độ 8 hải lý/giờ, hành trình 125 hải lý; tàu SDV lượng giãn nước 100 tấn, dài 14m, hành trình 180 hải lý. Cả hai tàu đều làm bằng vật liệu phức hợp, sợi thủy tinh, sử dụng hệ đẩy điện, kíp vận hành tàu từ 6 đến 8 người. Hải quân Đức trang bị tàu ngầm siêu nhỏ Orca, lượng giãn nước 28 tấn, dài 12m, gồm một người lái, tốc độ 5 hải lý/giờ, hành trình 150 hải lý. Mỗi tàu Orca chuyên chở được 5 người nhái.

Tàu ngầm mi-ni chiến đấu ngày càng phát triển, điển hình là các tàu MG-120 và tàu MG-130 của hãng Cô-xmốt (I-ta-li-a) chế tạo. Ngoài việc chuyên chở từ 8 đến 14 biệt kích người nhái, các tàu trên đều được trang bị vũ khí hiện đại. Tàu MG-120, lượng giãn nước 120 tấn, dài 16m, trang bị 2 ngư lôi 533mm, 2 tên lửa chống hạm Sea Harpoon lắp ở mũi trước; tàu MG-130 lượng giãn nước 130 tấn, dài 30m, ngoài ngư lôi, tên lửa đối hạm còn lắp ngư lôi 419mm, 12 thủy lôi từ-âm Samcom-200. Cả hai tàu hoạt động ở độ sâu tối đa 150m, vận tốc khi lặn lớn nhất 10 hải lý/giờ, hành trình 80 hải lý. Các nước Đông Âu đã phát triển nhiều loại tàu ngầm siêu nhỏ lắp vũ khí và trang bị cho người nhái hải quân. Tàu ngầm Velebit của Crô-a-ti-a được cải tiến từ tàu lớp P-911 chế tạo từ thời LB Nam Tư, dài 21,09m, có vỏ chịu áp lực, chuyên chở được 6 người nhái. Tàu mang 12 thủy lôi cỡ nhỏ hoặc 4 thủy lôi đáy hạng nặng loại 533mm. Tàu Velebit có vận tốc tối đa khi lặn 7 hải lý/giờ, cự ly hành trình 200 hải lý, có khả năng hoạt động độc lập trong 6 ngày.

Để tăng thời gian hoạt động dưới nước, quân đội các nước chú trọng phát triển các hệ thống khí tài lặn, khí tài hỗ trợ cho người lính hoạt động dưới nước và phục vụ huấn luyện. Quân đội Mỹ đã trang bị thiết bị lặn kín Shadow Pac sử dụng đeo lưng, giúp người lính lặn ở độ sâu 300m trong khoảng 6 giờ. Hải quân Anh phát triển thiết bị lặn tiên tiến Oxymax, thời gian hoạt động dưới nước 3 giờ, ở độ sâu hơn 30m. Các thiết bị lặn hiện đại của phương Tây đã trang bị hệ máy tính lặn tiên tiến Suuto Stinger, có khả năng tính toán, xác định các chỉ số về áp lực, độ sâu, giúp người lính tránh được mối nguy hiểm, giảm khả năng mắc bệnh tăng áp, giảm áp... Các khí tài lặn và khí tài hỗ trợ, huấn luyện giúp người lính nâng cao trình độ, chiến đấu dưới nước hiệu quả hơn.

NINH HÙNG SƠN