QĐND - Trong suốt chặng đường đấu tranh giành độc lập, cách mạng Trung Quốc và cách mạng Việt Nam đã có nhiều gắn bó, giúp đỡ nhau vô tư, thiết thực. Sự giúp đỡ hiệu quả của phía Trung Quốc như đào tạo sĩ quan cho Quân đội nhân dân Việt Nam, giúp đỡ cơ sở vật chất, cầu cảng, bến bãi… đã góp phần “tiếp sức” nhân dân Việt Nam làm nên những chiến thắng chấn động địa cầu.
Trong quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai dân tộc, có những câu chuyện rất đời thường mà cao đẹp, nhân văn. Sâu thẳm trong ký ức của những người dân, cựu chiến binh từng là những người lính trên chiến trường, những thủy thủ, những học viên sĩ quan Việt Nam, vẫn còn đó những câu chuyện mãi mãi không thể quên về tình hữu nghị Việt - Trung mà họ có dịp được chứng kiến trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Bài học về súng cối “ôm nòng”
Ngược dòng thời gian, trở lại với khí thế của những ngày rực lửa trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, Thiếu tướng Đỗ Văn Phúc, nguyên Tùy viên quốc phòng Việt Nam tại Liên bang Nga kể lại, với cách bắn cối “ôm nòng” – một cách bắn cối ứng dụng mà ông học được ở Trung Quốc, ông và những đồng đội của mình đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tại đồi C1, trong những ngày cuối cùng của chiến dịch.
Nhớ lại kỷ niệm đặc biệt này, người chiến sĩ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa bồi hồi nhớ lại: “Hồi ấy tôi 21 tuổi, là Đại đội trưởng Đại đội 56 hỏa lực, thuộc Trung đoàn 98, Đại đoàn 316. Tình hình chiến trường lúc đó vô cùng ác liệt, căng thẳng. 75% quân số đại đội tôi đã hy sinh trong chiến dịch. 6 cán bộ chỉ huy chỉ còn lại 2. Đại đội tôi được giao nhiệm vụ đánh chiếm cứ điểm C1 - là cứ điểm trọng yếu cùng với A1 và C2 nằm sát nhau, địch tổ chức thành 12km phòng ngự then chốt ở cửa ngõ phía đông trung tâm Mường Thanh”. Đại đội của ông Phúc khi đó có 1 trung đội với 3 khẩu pháo không giật ĐKZ 57mm; 3 trung đội với 9 khẩu cối 81mm, phải hoàn thành hai nhiệm vụ: Một mặt phải bắn mãnh liệt vào khu “yên ngựa”, phá vỡ đội hình phản kích của địch, cùng với hỏa lực của pháo binh, bộ binh tạo thành một lá chắn lửa trước tuyến phòng ngự của ta; mặt khác phải sẵn sàng khi có lệnh hoặc yêu cầu của bộ binh, kịp thời chuyển bắn vào cột cờ trên đỉnh đồi C1, chế áp tiêu diệt địch nếu chúng đột nhập vào trận địa của ta.
 |
Cựu chiến binh Đỗ Văn Lâm. Ảnh: Hoa Vinh. |
Nhiệm vụ thứ hai vô cùng nan giải: Làm sao cản được địch mà không sát thương quân ta trong một thế trận cài răng lược. “Quân ta di chuyển trong địa hình hẹp, giao thông hào chật và nông không cho phép chúng tôi đặt cả chân và bàn cối bắn theo đúng bài bản. Gặp bài toán “khó nhằn” ấy, tôi nhớ đến bài bắn ứng dụng, từng được các thầy giáo người Trung Quốc truyền dạy. Cách bắn “ôm nòng” với khả năng cơ động cao, có thể bắn ở nhiều tầm, nhiều hướng, nhiều khoảng cách đã phát huy tối đa tính ưu việt của hỏa lực cầu vồng, diệt địch ở địa hình hẹp, ở nhiều “góc chết”, khiến cho địch bất ngờ”, ông Phúc nhớ lại.
Đơn vị của ông Phúc đã bỏ hết bàn đế và chân cối lại, một pháo thủ vai đỡ và tay ôm lấy nòng, để một pháo thủ khác thả đạn với góc bắn gần 90 độ. Cách bắn “ôm nòng” đánh địch trên đồi C1 đã tạo được tiếng vang. Phương pháp bắn ứng dụng này đã được dùng ở nhiều đơn vị, hiệu quả tiêu diệt địch rất cao, góp phần đánh bại nhiều cuộc phản kích của địch vào cứ điểm C1 mà ta đã làm chủ.
Kể thêm về cách bắn cối ứng dụng học được từ Trung Quốc, Thiếu tướng Phúc cho biết thêm: Cách bắn này khá nguy hiểm. Khi bắn tiếng nổ rất lớn, có thể gây ù tai. Nòng súng rất nóng, phải thường xuyên lấy nước từ bi đông giội vào tấm vải bọc bên ngoài. Nếu vải bọc bị rách, thậm chí phải cởi cả áo ra bọc vào nòng súng để tránh bị bỏng ở tay, vai, mặt.
Kể về nguồn gốc của cách bắn ứng dụng này, Thiếu tướng Đỗ Văn Phúc cho biết, đầu năm 1950, ông cùng các bạn khóa 6 đào tạo sĩ quan thuộc Trường võ bị Trần Quốc Tuấn sang Trung Quốc học tập. Ông Phúc theo học kỹ thuật bắn súng cối. Phía Trung Quốc giúp Việt Nam cơ sở vật chất, trang bị học tập, nơi ăn, ở và cả giáo viên giảng dạy. “Ngày đó, chúng tôi đi bộ lên Hà Giang, sau đó qua biên giới Việt – Trung, đi tới một cơ sở quân sự cũ của tàn quân Tưởng Giới Thạch tại tỉnh Vân Nam. Phía Trung Quốc bố trí nơi ăn chốn ở cho bộ đội ta rất chu đáo. Tôi biết, thời kỳ đó Trung Quốc mới giải phóng, điều kiện cơ sở vật chất của Nhà nước và nhân dân đều rất khó khăn. Song, cán bộ khóa 6 Trường võ bị Trần Quốc Tuấn đã được bạn tạo mọi điều kiện từ ăn ở tới cơ sở huấn luyện học tập rất chu đáo, với mong muốn bộ đội Việt Nam có thể đạt được kết quả học tập tốt nhất”, ông Phúc kể.
Trong câu chuyện với chúng tôi, Thiếu tướng Đỗ Văn Phúc cho biết, một thầy giáo người Trung Quốc tên Giá (ông không nhớ được họ đầy đủ) đã lên lớp về lý thuyết và thực hành cách bắn súng cối ứng dụng. “Tôi có thể tự hào nói rằng, chúng tôi là lớp người Việt Nam đầu tiên bắn súng cối không bàn đế. Một cách bắn ứng dụng vô cùng linh hoạt và hiệu quả”. Thiếu tướng Phúc nhớ lại: Lên lớp xong phần lý thuyết, thầy giáo Giá gọi tôi lên thực hành. Khi ấy tôi được “phong” là ‘tiểu giáo viên’ – tức là cán bộ phụ trách lớp kiêm chức. Đây là lần đầu học viên ta thực hiện cách bắn mới, vì vậy thầy giáo Giá muốn tôi gương mẫu làm trước. Thầy giáo đưa cho chúng tôi khẩu cối thật, đạn thật, cự ly mục tiêu khoảng 200m. Khi ra bãi tập, thầy hướng dẫn chúng tôi tỉ mỉ từng động tác, cách lấy tầm, hướng, cách kẹp nòng, nâng góc và những kinh nghiệm để bắn một cách chuẩn xác và nhanh nhất….
“Tôi cùng một đồng chí trong lớp ra thực hành. Quả thật, phát đạn đầu tiên khi để nòng súng sát tai, tiếng nổ đã khiến tôi ù tai. Thế rồi đến quả thứ hai, thứ ba, khi bắt đầu quen, lại thấy rất thích thú vì đã học được một kỹ thuật bắn mới. Sau này, trong những lần truy kích địch ứng dụng cách bắn này, tôi lại nhớ tới những buổi học với người thầy giáo Trung Quốc.”, ông Phúc hồi tưởng.
“Nói thật, bài học đó không chỉ dừng lại ở kỹ thuật bắn súng, sử dụng hỏa khí, mà tôi thấy, ý nghĩa của nó còn là tình cảm, sự chia sẻ của nhân dân, quân đội Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm khó khăn gian khổ”, ông Phúc xúc động nói.
Trong những năm 50 của thế kỷ trước, nước bạn còn khó khăn lắm, dân cũng đói khổ, chính quyền mới cũng còn nhiều khó khăn, vậy mà bạn vẫn dành cho ta những điều kiện tốt nhất như lương thực, đèn, điện, quần áo các mùa, đồ dùng học tập… “Mùa đông ở vùng đó rét, quần áo của học viên ta lại ít, bạn đã đưa tới những bộ quần áo bông rất tốt cho bộ đội ta. Tôi không thể quên được sự quan tâm, nhường nhịn ấy”, ông Phúc nhớ lại.
Nơi niềm tin hội tụ
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tình cảm của nhân dân, của những cán bộ, chiến sĩ Việt Nam và Trung Quốc lại tiếp tục được khẳng định. Đó là tình cảm, sự sẻ chia của những chuyên gia, cựu chiến binh Trung Quốc khi tới Việt Nam giúp làm đường, xây dựng các công trình, hay tình cảm của các thủy thủ Việt Nam đã từng gắn bó với những bến cảng ở Hải Nam (Trung Quốc) trong những ngày tháng làm nhiệm vụ bí mật trên Đường Hồ Chí Minh trên biển.
Cựu chiến binh Đỗ Văn Lâm, người từng tham gia vào đoàn thủy thủ tàu không số kể lại, năm 1963, ông là y tá, được điều về Đoàn 125 và đưa ra huấn luyện tại K35, Đồ Sơn - Hải Phòng. Sau khi huấn luyện cơ bản, tháng 11-1964 ông xuống tàu làm nhiệm vụ. “Lúc đó tôi làm nhiệm vụ y tá tàu kiêm pháo thủ mạn trái của tàu 68 (thuyền trưởng là Nguyễn Ngọc Ẩn). Năm ấy tàu của tôi có nhiệm vụ mang một chuyến hàng cho đồng bào miền Nam. 10 giờ tối tàu xuất phát lấy hàng ở Đồ Sơn, đến chiều hôm sau thì đến đảo Hải Nam, Trung Quốc”, ông Lâm kể về chuyến đi đầu tiên mình tham gia.
Sau chuyến đi này, ông còn tham gia một số chuyến đi khác và nhiều lần cập cảng Hậu Thủy của Trung Quốc. Cũng như nhiều thủy thủ Việt Nam khác, tình cảm và sự chăm sóc chu đáo của những người bạn Trung Quốc mà ông từng được chứng kiến luôn để lại ký ức đẹp. “Tôi công tác dưới tàu từ năm 1964 đến 1968, các chuyến công tác đều qua cảng Hậu Thủy. Những năm ấy có nhiều tàu, thuyền của Việt Nam khi làm nhiệm vụ đều ghé qua cảng Hậu Thủy rồi mới xuất phát. Cảng Hậu Thủy là nơi an toàn, bí mật và thuận tiện để xuất phát đi miền Nam Việt Nam. Tình cảm của ta và các bạn Trung Quốc rất gắn bó, thân thiết. Mỗi chuyến đi phía Trung Quốc đều dẫn tàu ta ra tận phao số 0 của họ rồi mới chào từ biệt”, ông Lâm cho biết.
Ông Lâm cho biết, trong mỗi chuyến đi, ông và đoàn Việt Nam được phía bạn cấp các trang bị phục vụ cho đi biển như thuốc cấp cứu, phao cứu sinh, phao cá nhân. “Nếu dưới tàu có chiến sĩ ốm đau, mình điện lên là bạn cho xe xuống đón đưa về bệnh viện trên đất liền. Mình yêu cầu gì là bạn đáp ứng cái đó", ông Lâm kể.
Không chỉ chăm lo chu đáo cho bộ đội ta trong những lúc khó khăn, trong quá trình luyện tập, bạn cũng tạo điều kiện tối đa để ta có thể thoải mái tập luyện, huấn luyện các phương án chiến đấu. Ông Lâm kể: Tập luyện thì cơ bản mình tập trong nước. Sang cảng A2 trong lúc chờ đợi, thủy thủ cũng tranh thủ huấn luyện một số nội dung như bắn súng, bơi… Những lúc ấy, phía Trung Quốc tạo điều kiện hết mức như thông báo cho tàu bè đánh cá trong khu vực phải giãn ra để ta tập luyện và bảo đảm bí mật, tăng cường cho ta các tàu, thuyền cứu hộ khi ta cần…
----------
(Còn nữa)
NGUYỄN HÒA – ANH VŨ