QĐND Online-Chuyến đi trinh sát mở đường thắng lợi và Nghị quyết của Quân ủy Trung ương khiến cho cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759 nức lòng.

Cùng thời điểm ở Quảng Bình, tàu "Bạc Liêu" được sửa chữa thì ở Hải Phòng, theo chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Đoàn 759 đặt Xưởng đóng tàu 1 sửa chữa chiếc tàu của tỉnh Trà Vinh. 4 chiếc tàu gỗ có buồm, có máy đẩy theo dạng thuyền đánh cá ở miền Nam cũng được đóng mới.

Bên cạnh việc đóng tàu, những công việc khác cũng được tiến hành. Bộ đội công binh và hải quân được Bộ giao nhiệm vụ sửa chữa gấp cầu cảng K-15 (còn gọi là H-10) tại bán đảo Đồ Sơn. Bộ đội quân khí có nhiệm vụ đóng gói súng đạn sao cho không có một dấu vết nào chứng tỏ những thứ ấy được tiến hành ở miền Bắc. Bộ Nội vụ có nhiệm vụ bảo vệ bí mật, an toàn khu nghỉ mát Đồ Sơn, Hải Phòng.
 

Tàu không số trên đường vào Nam

Tháng 8-1962, Đoàn 759 nhận bàn giao 4 tàu gỗ từ Xưởng đóng tàu I, Hải Phòng. Một số cán bộ tàu thuyền, kỹ thuật là người miền Nam từ các đoàn tàu vận tải, đơn vị bộ đội, nông trường...lần lượt được bổ sung cho Đoàn 759. Mọi công việc cho chuyến vận chuyển đầu tiên bằng tàu gỗ có gắn máy được hoàn tất.

Đêm 11-10-1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) lên đường đi Cà Mau. Chiếc thuyền này do đồng chí Lê Văn Một làm Thuyền trưởng, đồng chí Bông Văn Dĩa làm Chính trị viên. Các thủy thủ gồm: Huỳnh Văn Sao (Năm Sao), Nguyễn Văn Bé (Tư Bé), Ba Thành, Nguyễn Văn Phong, Nguyễn Văn Nhung, Nguyễn Xuân Lai (Sáu Lai), Sáu Rô, Thanh Đen, Trần Văn Kết (Tám Kết), Ngô Văn Tân (Năm Kỷ), Nguyễn Long.

Tàu đi đến Cù Lao Thu thì máy hỏng. Máy trưởng Huỳnh Văn Sao là người rất có kinh nghiệm nên sau một đêm thả trôi, con tàu lại nhằm hướng Nam. Ngày 16-10, tàu vào cửa Vàm Lũng. Đoàn xuồng của Nguyễn Văn Phán (Tư Đức) theo lệnh của Khu ủy Khu 9 đã đón sẵn, đưa tàu vào nơi tập kết là rạch Chùm Gọng trong niềm vui mừng khôn xiết.

Con đường biển nối hậu phương với tiền tuyến không chỉ là dự định mà đã trở thành hiện thực. Chuyến đi đầu tiên thắng lợi đã làm tiền đề cho các chuyến đi tiếp đó thành công.

Ngày 16-10-1962, khi tàu thứ nhất vào Vàm Lũng thì đêm hôm đó, đội tàu thứ 2 do Thuyền trưởng Đạt chỉ huy (đồng chí Huấn thuyền phó, đồng chí Lê Công Cẩn (Năm Công) làm chính trị viên, đồng chí Nhạn máy trưởng...lên đường. Mấy ngày sau, đội tàu số 2 cập bến Cà Mau giữa ban ngày khiến anh em ở bến rất ngạc nhiên và phấn khởi.

Chuyến thứ 3 lên đường vào ngày 14-11-1962. Thuyền trưởng là đồng chí Nguyễn Đức Dục; Chính trị viên Hồ Đức Thắng. Một tháng sau, ngày 14-12, chuyến thứ 4 lên đường. Tất cả các chuyến trên đều vào bến Cà Mau, đưa 111 tấn vũ khí chi viện cho Khu 9 rất an toàn. Đây là một thắng lợi lớn khi mà vùng đất cực Nam Nam Bộ, lực lượng vũ trang đang phát triển, đang rất cần súng đạn và vũ khí. Việc đưa được vũ khí vào vùng đất tận cùng Tổ quốc có ý nghĩa đặc biệt. Nó củng cố niềm tin cho đồng bào, đồng chí đang chiến đấu, củng cố quyết tâm của nhân dân miền Nam trong sự nghiêp cách mạng giải phóng dân tộc, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào hậu phương lớn miền Bắc.

Do khối lượng hàng hóa vận chuyển vào Nam Bộ ngày càng nhiều, cần có lực lượng tại chỗ mở thêm bến, đón nhận, cất giữ, bảo quản và chuyển giao cho các địa phương nên cấp trên quyết định thành lập Đoàn 962. Đoàn 962 do đồng chí Tư Đức làm đoàn trưởng, Sáu Toàn làm Chính ủy. Đồng chí Bông Văn Dĩa không trở ra miền Bắc mà ở lại làm đoàn phó. Đoàn 962 chính là người em ruột thịt của Đoàn 759. Sau này, nhiều cán bộ của Đoàn 759 được điều về Đoàn 962 công tác.

 

Kỳ sau: Những con tàu sắt ra khơi

 

QĐND Online.