QĐND Online - Khoảng 19 giờ ngày 25-6-1968, chiếc máy bay F4H của giặc Mỹ bay trinh thám dọc tuyến đường chiến lược 15A, vừa vào địa phận xã Trung Hoá, huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình thì bị khẩu đội trực chiến 12,7 ly thuộc Đại đội 367 - bộ đội địa phương huyện Minh Hoá bắn rơi. Đó là chiếc máy bay thứ 3.000 của giặc Mỹ bị bắn rơi tại Việt Nam.

Chiến công này còn in đậm trong ký ức của Đại tá Đinh Văn Minh- nguyên Khẩu đội trưởng khẩu đội trực chiến 12,7 ly Đại đội 367- nguyên chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện Minh Hoá. Mỗi lần nhắc đến chiến công đó, ông đều kể với giọng hào hứng, pha chút niềm tự hào.

Cuộc đời binh nghiệp Đại tá Đinh Văn Minh, (thôn Đa Thịnh, xã Hoá Hợp, huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình) bắt đầu từ năm 1965. Ông nhập ngũ vào Đại đội 367 thuộc đơn vị bộ đội địa phương huyện Minh Hóa. Đó là những năm tháng Đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh leo thang bắn phá miền Bắc nói chung, huyện Minh Hoá nói riêng rất ác liệt. Đại đội 367 được chia thành 3 bộ phận công tác để đáp ứng yêu cầu chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Trong đó có một bộ phận làm nhiệm vụ trực chiến phòng không bằng súng 12,7 ly gồm ba khẩu đội: một khẩu đội trực ở đỉnh Cồn Cao (xã Trung Hóa), một khẩu đội trực ở núi Co Đo (xã Hoá Hợp)... Riêng khẩu đội trực trên đỉnh Cồn Cao (thôn Bình Minh 2, xã Trung Hoá) do ông Đinh Văn Minh làm Khẩu đội trưởng có nhiệm vụ chặn đánh máy bay Mỹ trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh hòng ngăn chặn chúng bắn phá trọng điểm Ngầm Rinh, các xóm làng lân cận và đánh ra miền Bắc.

Đại tá Đinh Văn Minh kể lại chuyện bắn rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của giặc Mỹ.

Đế quốc Mỹ gây ra nhiều tội ác đau thương đã khơi dậy lòng hận thù và quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta. Năm 1968 đã có hơn 2.000 chiếc máy bay của giặc Mỹ đã phải đền tội. Cũng trong năm này, phong trào thi đua bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 3.000 rầm rộ khắp miền Bắc. Khẩu đội trực chiến của ông Minh cũng luôn sẵn sàng trong tư thế chiến đấu. Khoảng 19 giờ ngày 25-6-1968, từ phía tây nam, bốn chiếc máy bay Mỹ bay dọc theo tuyến đường chiến lược 15A để rà tìm xe của ta. Đại tá Minh bồi hồi nhớ lại: “Lúc đó, nghe tiếng máy bay từ xa, các chiến sĩ lập tức nhảy xuống công sự vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Ba chiếc đầu bay qua. Chiếc thứ tư vào đúng tầm ngắm. Tôi phất cờ và hô to: Bắn! Cả khẩu đội đồng loại nổ súng. Thấy ánh lửa chớp lên và khói phụt ra từ thân máy bay, chúng tôi đồng thanh reo lên: Cháy rồi! Máy bay cháy rồi các đồng chí ơi! Sau đó, chiếc máy bay bùng cháy và lao xuống núi Tò Tò, xã Xuân Hoá rồi phát ra một tiếng nổ dữ dội”.

Mười lăm phút sau khi chiếc máy may bị bắn hạ, ông Minh điện về báo cho Huyện đội trưởng lúc đó là ông Cao Xuân Hiểu. Ông Minh cho biết thêm: “Thời điểm đó, tôi và các đồng đội cũng chưa biết đó là chiếc máy bay thứ 3.000. Nhưng vài ngày sau khi Huyện đội báo báo lên Trung ương và được xác nhận: chiếc F4H bị bắn cháy là chiếc máy bay thứ 3.000. Khi biết được tin, tôi vô cùng tự hào, sung sướng và hạnh phúc”.

Cũng trong thời gian đó, chiến công của đơn vị ông được rất nhiều báo, đài trong nước liên tục đưa tin. Hạnh phúc hơn, tự hào hơn đối với ông cùng các đồng đội và quân dân Minh Hoá khi vinh dự được Bác Hồ gửi thư khen ngợi kèm theo: “Cờ thưởng quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

Sau chiến công trên, ông Đinh Văn Minh tiếp tục hoạt động cách mạng, giữ nhiều chức vụ khác nhau trong lĩnh vực quân sự tại nhiều địa phương trên cả nước. Năm 1988, ông trở về làm Huyện đội trưởng huyện Tuyên Hóa. Năm 1990, huyện Tuyên Hóa tách ra thành hai huyện là Tuyên Hóa và Minh Hóa, ông về làm Huyện đội trưởng huyện Minh Hóa đến năm 2001 rồi về nghỉ hưu.

Nay ông đã bước sang tuổi 65 với 44 năm tuổi Đảng. Trong cuộc sống gia đình, ông luôn là người chồng, người cha mẫu mực. Vợ ông cũng là một đảng viên, năm người con ông đều thành đạt. Có hai người được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Riêng người con trai thứ 4 của ông hiện vẫn theo nghiệp cha, đang công tác tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh.

Nói về chiến công bắn rơi chiếc máy bay thứ 3.000 của giặc Mỹ, ông Đinh Xuân Giảng - Trưởng ban Tuyên giáo huyện ủy Minh Hóa cho biết: “Đó là niềm tự hào của quân và dân Minh Hoá. Đây cũng là mốc son chói lọi trong lịch sử huyện nhà; nhắc nhở thế hệ sau cần biết đến và sống sao cho xứng đáng với công lao của thế hệ cha, anh đi trước”.

Bài, ảnh: Xuân Vương