Nghệ thuật tổ chức lực lượng và cơ quan chỉ huy chiến dịch là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định thắng lợi của chiến dịch. Đây là những nội dung cơ bản, gắn bó chặt chẽ với nhau, là cơ sở phát triển của nghệ thuật tạo thế, chọn hướng (khu vực), mục tiêu và diễn biến của chiến dịch.

Trên chiến trường miền Nam, từ cuối năm 1964 đến năm 1965, khi ta mở các chiến dịch Bình Giã, Đồng Xoài, Ba Gia, Plây-me, với lực lượng chủ yếu mới tổ chức đến cấp trung đoàn và thực hành tiến công đến quy mô liên trung đoàn. Về cơ quan chỉ huy chiến dịch, ta tổ chức Bộ chỉ huy tiền phương và cơ quan chiến dịch tiền phương của Miền hoặc quân khu. Sau này, khi các sư đoàn được xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu, ta tổ chức các chiến dịch quy mô sư đoàn tăng cường như các chiến dịch ở bắc Bình Định, tây Sơn Tịnh, bắc Phú Yên…sau đó mở một số chiến dịch cấp liên sư đoàn như các chiến dịch: Đường 9-Khe Sanh, Tây Ninh-Bình Long... Về chỉ huy chiến dịch, ta vẫn tổ chức Bộ chỉ huy tiền phương và cơ quan chiến dịch tiền phương như trước.

Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh họp chỉ đạo tác chiến. Ảnh tư liệu

Đến những năm 1970-1971, trên các địa bàn chiến lược ở những chiến trường quan trọng, ta xây dựng được từ 3 đến 4 sư đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng mạnh, nhất là trên hướng Đường 9-Nam Lào, tổ chức Binh đoàn 70, tiếp đó tổ chức cơ quan chỉ huy tiền phương Bộ tư lệnh Miền (mật danh là Đoàn 301), tương đương cấp quân đoàn. Khi mở chiến dịch Đường 9-Nam Lào (năm 1971), với quy mô tổ chức lực lượng cấp quân đoàn tăng cường thì ta không tổ chức Bộ chỉ huy tiền phương và cơ quan chiến dịch tiền phương, mà tổ chức Bộ tư lệnh chiến dịch, có đồng chí đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy. Hình thức tổ chức cơ quan chiến dịch như vậy đã mở rộng quyền hạn chỉ huy chiến dịch, tạo chủ động và xử lý các tình huống kịp thời. 

Trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, ta giải thể Binh đoàn 70, nhưng trong các chiến dịch: Tiến công Trị - Thiên, bắc Tây Nguyên, Nguyễn Huệ... ta đều tổ chức lực lượng tương đương quân đoàn, hoặc quân đoàn tăng cường và nhiều đơn vị binh chủng lớn, có hoả lực mạnh, bao gồm pháo xe kéo và xe tăng tham gia. Trong các chiến dịch này, ta tổ chức Bộ tư lệnh chiến dịch và cơ quan chiến dịch tương đối mạnh và có nhiều quyền hạn hơn trước. Thực tiễn các chiến dịch trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã cho ta nhiều kinh nghiệm về tổ chức lực lượng và cơ quan chỉ huy chiến dịch, mối quan hệ giữa cấp chiến lược với cấp chiến dịch trong chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch. Đối với các chiến dịch như chiến dịch bắc Bình Định (1972), ta sử dụng một sư đoàn, nhiều đơn vị binh chủng của quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện và dân quân du kích xã, ấp chiến đấu, kết hợp với đông đảo quần chúng nổi dậy, thì tổ chức cơ quan chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch thống nhất cả về chính trị, quân sự, bao gồm cả các đồng chí chỉ huy quân sự và chủ trì cấp ủy địa phương. Đây là hình thức tổ chức lực lượng và cơ quan chỉ huy chiến dịch phù hợp với điều kiện của chiến tranh nhân dân địa phương. 

Đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, vấn đề tổ chức lực lượng và cơ quan chỉ huy chiến dịch có bước phát triển cao. Về tổ chức lực lượng, ta đã xây dựng được 4 quân đoàn chủ lực và Đoàn 232, trang bị khá mạnh, sức đột kích lớn, cơ động cao. Trong chiến dịch Tây Nguyên, ta tổ chức lực lượng quy mô tương đương cấp quân đoàn; các chiến dịch: Trị-Thiên, Đà Nẵng tổ chức quy mô cấp quân đoàn tăng cường. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, ta tổ chức lực lượng với 5 binh đoàn chủ lực và các đơn vị quân chủng, binh chủng mạnh, phương tiện kỹ thuật hiện đại, cùng LLVT địa phương và nhân dân địa phương trên địa bàn chiến dịch, hình thành thế áp đảo về lực lượng để đánh thắng hoàn toàn quân địch.

Về tổ chức cơ quan chỉ huy chiến dịch cũng có bước phát triển mới so với các giai đoạn trước. Trong chiến dịch Tây Nguyên, bên cạnh Bộ tư lệnh chiến dịch còn có đồng chí thay mặt Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, quyết định trực tiếp các tình huống quan trọng của chiến dịch. Trong các chiến dịch tiếp theo, lúc đầu ta chủ trương tổ chức hai Bộ chỉ huy chiến dịch của hai địa phương: Bộ chỉ huy chiến dịch của Quân khu Trị-Thiên trong chiến dịch Trị-Thiên và Bộ chỉ huy chiến dịch của Quân khu 5 trong chiến dịch Đà Nẵng. Do tình hình chiến trường phát triển nhanh, Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy Quân đoàn 2 và LLVT Quân khu Trị-Thiên giải phóng thành phố Huế và trực tiếp chỉ huy Quân đoàn 2, LLVT Quân khu 5 giải phóng thành phố Đà Nẵng. Đến Chiến dịch Hồ Chí Minh, tổ chức lực lượng và cơ quan chỉ huy chiến dịch có sự phát triển cao, phù hợp với tính chất, mục đích, quy mô chiến dịch trong tác chiến hiện đại, góp phần quyết định giành thắng lợi cuối cùng, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nghệ thuật quân sự Việt Nam, trong đó nghệ thuật chiến dịch phát triển có những đặc điểm, tính chất và nội dung mới. Những kinh nghiệm về tổ chức lực lượng và cơ quan chỉ huy chiến dịch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng phát triển sáng tạo, phù hợp với điều kiện mới của đất nước và bối cảnh quốc tế, khu vực hiện nay. 

Đại tá, Tiến sĩ Dương Đình Lập