QĐND Online - Tổng kết thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó có bài học về tổ chức hệ thống giao thông chiến lược-chiến dịch. Việc đưa một khối lượng lớn vật chất, khí tài tới các hướng chiến lược-chiến dịch và các khu vực chiến đấu theo đúng yêu cầu về số lượng, chất lượng và thời gian... chủ yếu là do lực lượng vận tải cơ giới đảm nhiệm. Để thực hiện được nhiệm vụ khó khăn này, nhất thiết phải có hệ thống đường giao thông chiến lược-chiến dịch, bao gồm tuyến đường chiến lược và các tuyến đường chiến dịch. Mỗi tuyến đường lại được lựa chọn chính xác và chuẩn bị chu đáo để có thể kéo dài và mở rộng theo sự phát triển của chiến lược – chiến dịch. Đặc biệt, trong điều kiện địa hình thời tiết nước ta có nhiều sông ngòi, mùa mưa lũ lớn, kẻ địch có lực lượng không quân mạnh, đánh phá ác liệt thì vấn đề bảo đảm giao thông chiến lược- chiến dịch vô cùng quan trọng, đòi hỏi tính khoa học cao.
Việc xây dựng tuyến đường chiến lược Trường Sơn là để đáp ứng yêu cầu chiến lược tiến công của chiến tranh giải phóng miền Nam. Trong đó, bảo đảm mạng đường, bảo đảm cơ động là một yếu tố then chốt đảm bảo thắng lợi của các chiến dịch tiến công tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Quy mô chiến dịch ngày càng lớn, sự tham gia của các binh chủng ngày càng đông, yêu cầu cơ động ngày càng cao, tính hiện đại và quyết liệt ngày càng tăng là những biểu hiện về sự phát triển của các chiến dịch tiến công trong chiến tranh nhân dân. Sự phát triển đó đòi hỏi Bộ đội Trường Sơn ngày càng phải chú trọng phương thức đảm bảo bằng phương tiện cơ giới, có trình độ hiện đại ngày càng cao. Đó cũng là phát triển tất yếu, cần thiết trong việc bảo đảm mạng đường, bảo đảm cơ động cho chiến dịch. Thực tiễn các chiến dịch tiến công của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, trong cuộc Tiến công chiến lược 1972, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã chứng minh rằng, muốn nâng cao tốc độ tiến công của bộ đội trong chiến đấu hiện đại, đáp ứng những tình huống phát triển nhanh chóng của chiến dịch, thì trong việc bảo đảm mạng đường, bảo đảm cơ động, cần tăng cường phương thức bảo đảm bằng cơ giới, tăng cường việc sử dụng các khí tài hiện đại chế sẵn và các vật liệu chế sẵn, tổ chức cho bộ đội công binh sử dụng có hiệu lực các máy móc làm đường, các phương tiện cơ giới, mạnh bạo huy động các đơn vị ấy cho việc bảo đảm mạng đường chiến dịch. Cần sử dụng tập trung các đơn vị công binh cơ giới, phương tiện cơ giới vào những khu vực tiến công và thời cơ tiến công quan trọng nhất, đặc biệt là việc đảm bảo cho binh khí- kỹ thuật trên hướng chủ yếu, cơ động kịp thời để đột phá, thọc sâu vào chiều sâu phòng ngự của địch trong giai đoạn mở đầu chiến dịch cũng như khi chiến dịch phát triển. Tuy nhiên, nêu cao phương thức bảo đảm bằng phương tiện cơ giới không có nghĩa là xem nhẹ phương thức bảo đảm bằng khí tài thô sơ. Từ việc mở và làm một tuyến đường mới, chuẩn bị một bến vượt sông, đến ngụy trang một quãng đường, một chiếc cầu, khắc phục một đoạn đường hỏng do mưa lũ..., ở đâu cũng cần sự vận dụng linh hoạt phương thức đảm bảo bằng khí tài thô sơ, bằng vật liệu tại chỗ, bằng lao động thủ công của cán bộ, chiến sĩ công binh. Bộ đội công binh Trường Sơn có nhiều kinh nghiệm sử dụng khí tài thô sơ, vật liệu tại chỗ và lao động thủ công để mở đường, làm đường, làm bến vượt sông... Nhưng do khối lượng lớn, tính chất chất khẩn trương của việc bảo đảm mạng đường, đảm bảo vượt sông trong chiến dịch, nên việc cải tiến các khí tài thô sơ, cải tiến tổ chức lao động, nâng cao trình độ sử dụng các khí tài thô sơ và cải tiến, nâng cao năng suất lao động thủ công của bộ đội công binh... là những vấn đề rất được Bộ đội Trường Sơn coi trọng.
Cho tới ngày toàn thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mạng đường Trường Sơn đã phát triển, bao gồm 5 hệ thống đường trục dài 5.530km, 21 đường trục ngang dài 4.019km cùng với hệ thống đường vượt khẩu, đường vòng tránh... lên tới 13.000km. Tính từ năm 1959 đến năm 1975, trên mạng đường này, Bộ đội Trường Sơn đã vận chuyển, giao cho các hướng chiến trường 1.349.057 tấn hàng. Liệu một khối lượng hàng như thế có thể chuyển được từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn, nếu chỉ bằng những hoạt động gùi, thồ bằng sức người hay bằng voi, ngựa và xe đạp như những năm đầu của cuộc kháng chiến? Những con số thống kê cho thấy, trong 6 năm vận chuyển thô sơ, tuyến đường chỉ bảo đảm được 16 nghìn tấn hàng, nhưng trong 11 năm, từ năm 1965 đến năm 1975, dùng vận tải cơ giới, tuyến đường đã vận chuyển được 1,3 triệu tấn tấn hàng. Như vậy, hầu hết khối lượng vật chất, kỹ thuật được chuyển trên tuyến đường bằng cơ giới. Mạng đường vươn dài và tỏa rộng với chiến công của nó, đó chỉ có thể là kết quả một công trình tổ chức to lớn với sức mạnh kháng chiến của cả nước, của hậu phương lớn miền Bắc XHCN, với tinh thần cách mạng, ý chí tiến công và những nỗ lực sáng tạo phi thường của các lực lượng vũ trang trên toàn tuyến.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc kết hợp xây dựng đường giao thông chiến lược và chiến dịch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đã chứng tỏ một thực tế: Hiệu lực và tầm quan trọng của việc kết hợp đó nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo đảm quân đội tác chiến, hợp đồng quân binh chủng, càng đánh càng mạnh, kết thúc chiến tranh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH.
THẾ VỴ-HUY ĐỘNG