QĐND - Từ buổi ban đầu thành lập Trường Quân y sĩ Việt Nam với “mái lá phên tre giữa rừng Việt Bắc”, đến nay, Học viện Quân y đã phát triển vượt bậc, là một trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, điều trị có uy tín của quân đội và cả nước. Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc phỏng vấn Thiếu tướng, PGS, TS Nguyễn Trọng Chính, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Học viện nhân sự kiện 65 năm Ngày truyền thống Học viện Quân y. 

Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, nhắc đến Học viện Quân y, giới chuyên môn xem đó là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam với câu chuyện “người Việt dạy-học bằng tiếng Việt”. Câu chuyện nghe có vẻ như hơi lạ?

Thiếu tướng, PGS, TS Nguyễn Trọng Chính: Bây giờ, chúng ta nghe chuyện “người Việt dạy-học bằng tiếng Việt” sẽ thấy lạ, nhưng trong buổi đầu thành lập Trường Quân y sĩ Việt Nam thì không có gì lạ. Năm 1949, trường khai giảng khóa đầu tiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta đang ở giai đoạn vô cùng khó khăn, phức tạp. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, nền giáo dục nước ta là nền giáo dục thuộc địa, giảng dạy bằng tiếng Pháp, nên khi giành được độc lập, Bác Hồ rất quan tâm và khuyến khích các trường dạy bằng tiếng Việt. Nhà trường lúc đó chỉ có chưa đến 20 cán bộ, nhân viên cùng một ít tài liệu tiếng Pháp. Để dạy bằng tiếng Việt, giáo viên của trường gặp nhiều khó khăn vì số lượng các danh từ y học rất lớn, khi dịch phải trải qua nhiều đắn đo, suy nghĩ để tìm ra thuật ngữ chính xác, dễ hiểu và đúng ngôn ngữ dân tộc. Điển hình như bác sĩ Đỗ Xuân Hợp, người đã dành nhiều tâm sức biên dịch tài liệu học tập, nhiều đêm thầy Hợp thao thức để tìm ý dịch sao cho “thoát” nhất. Ví dụ như chuyện cái đoạn đầu ruột non nối tiếp với dạ dày, thuật ngữ la-tinh là “duodenum”, sách y học Trung Quốc dịch là “thập nhị chỉ tràng”, tức là “đoạn ruột 12 đốt ngón tay”. Danh từ này khá sát với từ gốc, nhưng lại quá dài và trúc trắc, con số 12 thoáng gợi ra một từ Việt Nam đã dùng rất phổ thông là “tá” và một cách dịch thoát nhất ập về: “Tá tràng”. Từ “Tá tràng” ngắn gọn, dễ nhớ, rất ấn tượng, về sau được thầy Hợp ghi vào “Từ điển Giải phẫu Việt Nam”.

Diễn tập y học quân sự tại Học viện Quân y. Ảnh: T.H

Đến năm 1951, khi nhà trường đưa tiếng Việt vào giảng dạy đầy đủ, tiếng Pháp còn lại rất ít thì các đồng nghiệp trong ngành y vẫn không tin. Để thuyết phục và tranh thủ sự ủng hộ của đồng nghiệp, nhân chuyến thăm Trường Đại học Y khoa Việt Nam, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp và bác sĩ Phạm Gia Triệu đề nghị giảng thử và chọn bài “Giải phẫu tai giữa”. Đây là bài có nhiều từ nước ngoài khó diễn đạt nhất nhưng đã được thầy Hợp truyền thụ một cách sinh động hoàn toàn bằng tiếng Việt suốt hai tiếng đồng hồ, kết thúc trong tràng pháo tay tự hào, xúc động của đồng nghiệp và sinh viên.

Câu chuyện “người Việt dạy-học bằng tiếng Việt” cũng phần nào nói lên truyền thống tự lực, tự cường của Học viện. Đến nay, Học viện có đội ngũ gần 500 giảng viên với hơn 90% đạt trình độ sau đại học, trong đó có 10 giáo sư, 60 phó giáo sư, 126 tiến sĩ… Học viện đã đào tạo cho quân đội và ngành y gần 90.000 cán bộ; hơn 800 tiến sĩ, hơn 8000 thạc sĩ, bác sĩ chuyên khoa I và II. Hiện nay, Chính phủ đang thực hiện các bước công nhận Học viện là trường trọng điểm quốc gia, trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, điều trị chất lượng cao của quân đội và cả nước.

PV: Học viện Quân y hiện nay đã trở thành niềm tự hào của Quân đội ta, nhưng trong lịch sử nhà trường có ghi phương châm đào tạo là “bám sát chiến trường”. Vậy, đến nay, phương châm đó được đổi mới như thế nào, thưa đồng chí?

Thiếu tướng, PGS, TS Nguyễn Trọng Chính: “Bám sát chiến trường” là phương châm hành động của nhà trường trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Ví dụ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đội điều trị 3 (tiền thân của Bệnh viện 103-bệnh viện thực hành của Học viện Quân y) với hơn 200 giáo viên, học viên của nhà trường đã tham gia chiến dịch, cùng chiến đấu, cứu chữa thương binh, bệnh binh, góp phần làm nên chiến thắng "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ở tất cả các chiến dịch lớn: Vạn Tường, Bình Giã, Đồng Xoài, Khe Sanh… đến Chiến dịch Hồ Chí Minh đều có sự góp công của thầy thuốc quân y nhà trường. Riêng Bệnh viện 103, ngoài việc cử các đội điều trị đi chiến trường còn thu dung, điều trị hàng nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ. Nhiều thầy thuốc của nhà trường đã anh dũng hy sinh, để lại tấm gương sáng ngời về y đức cho thế hệ sau học tập.

Đến nay, nhiệm vụ điều trị của nhà trường đã phát triển lên tầm cao mới với hai bệnh viện thực hành là Bệnh viện 103 và Viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác, cùng với Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ Phôi. Học viện Quân y trở thành một trong những cơ sở thu dung điều trị nhiều thương binh, bệnh binh và người bệnh dẫn đầu trong cả nước. Bệnh viện 103 không chỉ là bệnh viện có uy tín cao mà còn giữ vị trí đầu ngành quân đội về điều trị bệnh nghề nghiệp, điều trị bệnh nhân tâm thần; bệnh viện còn chủ động giúp đỡ về chuyên môn cho các bệnh viện tuyến trước như Viện 211 (Quân đoàn 3), Viện 6 (Quân khu 2), bảo đảm quân y cho đảo Nam Yết (quần đảo Trường Sa). Viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác giữ vị trí đầu ngành về điều trị bỏng của cả nước. Trung tâm Đào tạo-Nghiên cứu Công nghệ Phôi trở thành một trong những cơ sở y tế có uy tín hàng đầu cả nước về chất lượng, hiệu quả thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và thụ tinh trong ống nghiệm cho các cặp vợ chồng hiếm muộn.

“Bám sát chiến trường” là truyền thống của nhà trường, giờ trong thời bình, Học viện vẫn bám sát đơn vị, bộ đội, vì sức khỏe của thương binh, bệnh binh và người bệnh, vì yêu cầu xây dựng quân đội và đất nước mà ra sức học tập, rèn luyện để xây dựng ngành quân, dân y cách mạng, tiên tiến, hiện đại.

PV: Các thầy thuốc của Học viện vừa tiến hành ca ghép đa tạng (thận-tụy) đầu tiên ở Việt Nam. Có thể thấy, cùng với nhiệm vụ đào tạo và điều trị, công tác nghiên cứu khoa học của Học viện cũng được tổ chức bài bản với những thành tựu rực rỡ. Xin đồng chí chia sẻ với bạn đọc về thành tựu này?

Thiếu tướng, PGS, TS Nguyễn Trọng Chính: Thực hiện phương châm đi tắt, đón đầu trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, lấy phát triển khoa học-công nghệ làm động lực cho phát triển đào tạo và điều trị, Đảng ủy Học viện đã đề ra giải pháp đồng bộ trong việc tập hợp lực lượng, phát huy nhiệt tình, trí tuệ của đội ngũ cán bộ khoa học và học viên. Từ năm 2002 đến nay, Học viện Quân y trở thành một trong những đơn vị đi đầu của ngành y tế trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học-phát triển công nghệ. Hàng trăm đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp bộ, cấp ngành do các nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực khác nhau của Học viện tiến hành được nghiệm thu, đánh giá có giá trị khoa học cao và được các bệnh viện trong cả nước ứng dụng rộng rãi. Tiêu biểu như “Cụm công trình ghép tạng” là cơ sở khoa học để các thầy thuốc trong Học viện thực hiện thành công các ca ghép thận, ghép gan, ghép tim và mới nhất là ghép tụy-thận đầu tiên ở Việt Nam. Đây là thành tựu được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học đánh giá đã tạo nên bước tiến vượt bậc của nền y tế nước nhà. Trong lĩnh vực y học quân sự, nhiều công trình khoa học có giá trị và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, như đề tài “Nghiên cứu hậu quả chất độc da cam/đi-ô-xin do đế quốc Mỹ gây ra trong chiến tranh xâm lược Việt Nam”, là cơ sở quan trọng cho việc tố cáo tội ác chiến tranh và đấu tranh bảo vệ công lý cho các nạn nhân Việt Nam.

Một điều rất có ý nghĩa là hoạt động nghiên cứu khoa học đã lan tỏa, có tác dụng và hiệu quả rõ rệt trong tuổi trẻ Học viện. Học viện Quân y luôn đạt thành tích xuất sắc về nghiên cứu khoa học trong khối các trường đại học cả nước. Sinh viên của trường đã hai lần được trao giải WIPO của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới. Chúng tôi tự hào không chỉ bởi thành tích của thế hệ đi trước mà tự hào với cả thành tích của thế hệ trẻ hôm nay. Đó là cơ sở khoa học của niềm tin rằng, những truyền thống tốt đẹp của Học viện sẽ không ngừng được vun đắp, phát huy, hướng tới mục tiêu xây dựng Học viện Quân y cách mạng, chính quy, hiện đại.

PV: Xin cảm ơn đồng chí!

HỒNG HẢI - NGUYÊN THẮNG (thực hiện)