QĐND - Việc thiết lập bến Vũng Rô để tiếp nhận vũ khí theo đường biển từ miền Bắc vào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước xuất phát từ ý tưởng ban đầu của Thường vụ Tỉnh ủy Phú Yên, mà trực tiếp là đồng chí Trần Suyền, Bí thư Tỉnh ủy lúc bấy giờ. Đồng chí Trần Suyền đã cùng một số cán bộ cốt cán của hai xã Hòa Hiệp và Hòa Xuân trong nhiều tháng liền lặn lội, cắt rừng, trèo đèo, lội suối nhằm xác định những bãi tàu vào, những nơi cất giấu vũ khí, những hang động che được mưa nắng, tuyến hành lang vận chuyển tiếp theo lên miền Tây để đến tay bộ đội.

Chuyến nhận hàng đầu tiên vào bến đêm 3-10-1964. Chuyến hàng do Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh chỉ huy, đổ bộ vào bến Vũng Rô mang theo khoảng 40 tấn vũ khí. Những người có mặt đêm ấy kể lại: Cứ tưởng chiếc tàu bé bằng chiếc ghe bầu, chỉ cần bỏ xuống bờ một tấm ván là có thể lên tàu mang được hàng xuống. Không ngờ, tàu to quá lại chở theo rất nhiều vũ khí. Anh em phải ngâm mình trong nước đến ngực, giơ hai tay đón từng kiện hàng từ boong chuyển xuống. Khi hàng vơi, tàu nổi lên cao, việc lấy hàng càng thêm vất vả. Theo lời anh Trần Suyền, anh em bến phải bám trụ cả tháng trời trong rừng, hết gạo phải hái rau rừng và trái sung ăn và chờ tàu. Thiếu đói và mệt nhưng khi thấy tàu vào là quên hết.

Một góc Vũng Rô hôm nay. Ảnh: Ngọc Minh 

Chuyến thứ hai, bến có thêm kinh nghiệm nên huy động được 4 ghe mành của ngư dân xã Hòa Hiệp, cập sát vào mạn tàu. Vì thế, lực lượng bốc dỡ hàng không phải ngâm mình trong nước như lần trước. Một công đoạn mà lúc đầu bến chưa hình dung được là sau khi đã bốc hết hàng, phải có vật nặng bỏ xuống khoang để dằn tàu. Chuyến thứ nhất chưa chuẩn bị được phương tiện bốc cát, nên bến phải bỏ mọi thứ sẵn có như ba lô, bao bì, thau chậu xúc cát trên bãi đổ xuống tàu. Chuyến thứ hai, bến chuẩn bị sẵn sọt tre để xúc cát nên đỡ vất vả hơn.

Đón chuyến thứ ba thì bến Vũng Rô tiến bộ thêm một bước là bố trí người vào núi xẻ gỗ, giấu sẵn ở bìa rừng, tối đến, trước khi tàu vào thì khiêng gỗ ra đóng cọc lót ván làm cầu tàu, phối hợp cùng với ghe mành nên việc giải phóng hàng rất nhanh. Trước khi trời sáng tháo cầu tàu đưa vào rừng cất giấu. Và lần này, công việc xúc cát đổ lên cũng chẳng làm mọi người bận lòng, vì tàu đã thiết kế van ở hầm để tháo nước biển chảy vào. Điều cảm động là biết bến thiếu đói, Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh đã san sẻ lương thực của thủy thủ để giúp đỡ. Khi ra Bắc, anh Thạnh còn báo cáo cấp trên và kiến nghị những chuyến tiếp sau, cho phép tàu bớt lượng vũ khí, thay vào đó là 3 tấn gạo và một số nhu yếu phẩm tiếp tế cho bến.

Cường độ lao động trong những đêm đón tàu thật phi thường. Trong khoảng thời gian từ 4 đến 5 tiếng đồng hồ phải bốc hàng và đổ cát dằn tàu xong trước 3 giờ sáng để tàu kịp rời bến an toàn. Trong khi lực lượng bốc dỡ có chuyến chỉ vài chục người.

Trong những ngày giáp Tết Ất Tỵ 1965, theo điện Cậu Vũ (mật danh của Bộ), tàu sẽ vào, lực lượng bến đang khẩn trương chuẩn bị thì một chuyện bất ngờ xảy ra: Ta phát hiện chiếc ca nô của một người chủ lưới đang chở theo một số sĩ quan ngụy thả trôi sát dọc bờ biển gần khu vực bến. Họ ra đây ăn nhậu cuối năm hay có việc gì khác? Bài toán lúc này là làm thế nào tống khứ được các “vị khách” này đi để không làm lộ bến. Trong cuộc đấu trí chưa có tiền lệ này, anh Năm Thọ, Bí thư Chi bộ xã Hòa Hiệp nghĩ ra cách: Cử hai đồng chí vốn đã quen với chủ của chiếc ca nô, bơi thuyền thúng ra thăm dò. Thời điểm đó, ở Vũng Rô có tình trạng địch kiểm soát ban ngày, còn ta kiểm soát ban đêm, nên hai đồng chí trên thản nhiên yêu cầu ông chủ lưới đăng cho mượn ca nô để vào Nha Trang mua hàng. Nghe chuyện, cả chủ lưới đăng và mấy tên ngụy đều lặng đi lo lắng, sợ nếu ta mượn ca nô để làm chuyện gì lớn thì họ cũng gặp rầy rà to. Vậy là, ông chủ lưới đăng đề nghị kết thúc bữa tiệc, đưa mấy sĩ quan ngụy về Nha Trang đồng thời nói: Cách mạng cần mua gì, tôi sẽ giúp. Thế là, ta đã đuổi được các “vị khách” một cách khôn khéo.

Để bạn đọc hình dung một kiện hàng từ lúc nhận ở tàu khi đưa lên bến và đến tay bộ đội ở Vũng Rô phải qua các bước: Nếu chuyển bằng đường bộ thì phải giấu tạm về các hang động trải dài theo chân núi Ông Bia. Mỗi người, mỗi ngày vác khoảng 20kg băng qua các đèo dốc trong điều kiện phải bảo đảm tuyệt mật, không để lại dấu vết. Vậy để vác 40 tấn vũ khí, cần phải có bao nhiêu người? Một phương án khác nhanh gọn hơn là huy động ghe mành của bà con trung kiên ở Hòa Hiệp. Mỗi đêm 4 chiếc, mỗi chiếc 4 lao động, cứ xẩm tối đi cùng với những chiếc ghe làm ăn bình thường khác ra cửa Đà Nông men theo các gềnh bãi, hành trình hơn 20 hải lý vào các nơi cất giấu vũ khí để nhận hàng. Hôm nào sóng to, gió lớn không kịp đưa hàng vào thì nằm lại ở bãi cát. Mọi hoạt động về đêm, mang vác nặng, đi dò giẫm trong hang đá thiếu ánh sáng để giữ bí mật nên rất khó nhọc, nguy hiểm. Kể qua như vậy để thấy được công lao của những ngư dân hết lòng với cách mạng không chỉ cống hiến công sức, trí tuệ mà còn luôn phải đối mặt với hiểm nguy để súng đạn đến tay chiến sĩ.

Sau này bến lộ, địch mở cuộc càn quét, đánh phá điên cuồng không chỉ ở khu vực K60 mà mở rộng ra nhiều khu lân cận. Một kho hàng ở Hục Sài, còn gần 20 tấn, ta buộc phải cho nổ khi địch tiến gần miệng hang. Địch tàn phá nhà cửa, ghe thuyền của ngư dân Hòa Hiệp, tàn sát thường dân vô tội vạ. Ai còn sống sót thì tản mát khắp nơi. Lực lượng anh em ở bến rất căm thù nhưng phải lo bảo vệ bến, triển khai các chốt quan sát và hoạt động vận chuyển, xuất nhập các kho, đón các đoàn dân công từ miền Tây về nhận hàng nên không thể “xuất đầu, lộ diện” đối phó. Trong những ngày đó, đội ngũ đảng viên và một bộ phận quần chúng kiên trung thuộc hai xã Hòa Hiệp, Hòa Xuân đã âm thầm gánh vác nhiệm vụ to lớn, nguy hiểm, vừa làm công tác vận động nhân dân, vừa bảo vệ bến tuyệt mật.

Năm nay kỷ niệm 50 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển, những mẩu chuyện nhỏ về bến Vũng Rô chắc không đủ để nói hết tấm lòng của người dân bến đón đã âm thầm, lặng lẽ hy sinh vì cách mạng. Bài báo này được đăng sẽ là một nén tâm nhang thắp cho biết bao chiến sĩ, đồng bào đã hy sinh thầm lặng để các bến đón hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Lê Đình Kiến, Nguyên Chính trị viên K60-Bến đón Vũng Rô