QĐND - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9-1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc ta. Song, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đối mặt với những khó khăn, thử thách cực kỳ nghiêm trọng. Thực hiện chủ trương tránh đụng độ với nhiều kẻ thù cùng một lúc, lợi dụng mâu thuẫn giữa các tập đoàn đế quốc trong vấn đề Đông Dương, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khôn khéo thực hiện sách lược hòa với Tưởng để chống Pháp, sau đó lại hòa với Pháp để đuổi 20 vạn quân Tưởng cùng bè lũ tay sai phản động ra khỏi đất nước, dành thời gian hòa hoãn quý báu chuẩn bị cho kháng chiến.

Để khẳng định là một nước độc lập, có chủ quyền và chính thể hợp hiến, tạo lòng tin vững chắc và sự ủng hộ của toàn dân, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng Chính phủ quyết định Tổng tuyển cử trong cả nước vào ngày 6-1-1946 để bầu Quốc hội, lập Chính phủ chính thức, xây dựng hiến pháp của nước Việt Nam độc lập. Thắng lợi của tổng tuyển cử tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao với kẻ thù và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta.

Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên nhiều nhân sĩ, trí thức vào các cơ quan tư vấn, hành chính, quốc hội… Hàng loạt tổ chức cứu quốc được củng cố, mở rộng hoặc được lập thêm. Sau tổng tuyển cử, hệ thống chính quyền các cấp được kiện toàn. Trong năm 1946, trừ vùng có chiến sự ác liệt (Nam Bộ, Nam Trung Bộ), các địa phương đã bầu ủy ban hành chính chính thức cấp huyện, tỉnh. Để tranh thủ sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, chuẩn bị cho kháng chiến, ta chủ trương mở rộng Mặt trận Việt Minh, thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp; phát động các phong trào với các khẩu hiệu hành động như: “Dân tộc là trên hết”, “Tổ quốc trên hết”; chuẩn bị tập trung lực lượng đối phó với kẻ thù trực tiếp bấy giờ là thực dân Pháp.

Trung đội học sinh Hà Nội trong đội hình Chi đội 3 Quân giải phóng tham gia Nam tiến. Ảnh tư liệu

Đối phó với thù trong, giặc ngoài, bảo vệ thành quả của cách mạng, chuẩn bị cho kháng chiến, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng và củng cố quốc phòng. Tháng 1-1946, Trung ương Quân ủy được thành lập. Lực lượng Giải phóng quân Việt Nam được củng cố, đổi tên thành Vệ quốc đoàn, ngày 22-5-1946 đổi thành Quân đội Quốc gia Việt Nam, đặt dưới sự chỉ huy tập trung, thống nhất của Bộ Tổng tham mưu. Từ đầu năm 1946, lực lượng vũ trang được biên chế thống nhất theo các cấp từ trung đoàn trở xuống. Nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng là: Xây dựng quân đội toàn diện về chính trị, quân sự; tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Đây là một đội quân cách mạng "Trung với nước, hiếu với dân". Cùng với lực lượng vũ trang cách mạng tập trung, lực lượng dân quân, tự vệ được các cấp chính quyền đặc biệt quan tâm xây dựng, củng cố; tổ chức các đơn vị tự vệ cứu quốc và tự vệ chiến đấu ở tất cả các khu phố, thôn, xã. Đến cuối năm 1946, lực lượng vũ trang đã phát triển với hàng vạn cán bộ, chiến sĩ quân đội, gần 1 triệu đội viên dân quân, tự vệ trên khắp cả nước. Quân đội, dân quân, tự vệ và công an là những lực lượng nòng cốt bảo vệ hiệu quả nhà nước dân chủ nhân dân trong thời kỳ cách mạng Việt Nam gặp muôn vàn khó khăn thử thách.

Chuẩn bị mọi mặt về hậu phương và tài chính cho kháng chiến, Chính phủ cắt giảm các khoản chi tiêu chưa thật cần thiết và kêu gọi sự đóng góp của toàn dân tham gia xây dựng "Quỹ Độc lập", tổ chức "Tuần lễ vàng" để có tài chính phục vụ quốc phòng, an ninh. Ngày 19-10-1946, Đảng ta triệu tập Hội nghị quân sự toàn quốc và xác định kiên quyết kháng chiến chống Pháp. Theo đó, các phương án tác chiến được đề ra. Kế hoạch tiêu thổ kháng chiến, phá hoại đường sá, cầu cống, thực hiện vườn không, nhà trống được chuẩn bị để ngăn chặn địch. Vùng rừng núi Việt Bắc được củng cố làm căn cứ địa vững chắc của Trung ương chỉ đạo kháng chiến. Máy móc, nguyên vật liệu của nhiều nhà máy, xí nghiệp được bí mật tháo dỡ chuyển từ các thành phố về các chiến khu để xây dựng nhà máy, công xưởng phục vụ yêu cầu chiến đấu và bảo đảm đời sống. Các khu, tỉnh, huyện trong cả nước khẩn trương chuẩn bị căn cứ của địa phương mình. Quân và dân thủ đô Hà Nội được giao nhiệm vụ chuẩn bị sẵn sàng, khi chiến tranh nổ ra phải chiến đấu giam chân địch một thời gian, tạo điều kiện cho hậu phương và cả nước chuyển vào thời chiến.

Hơn một năm giành được độc lập, vận mệnh đất nước ta ở thế "ngàn cân treo sợi tóc", đứng trước muôn vàn khó khăn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư duy sắc sảo và tầm nhìn chiến lược, với những chủ trương đúng đắn và cách làm phù hợp đã lãnh đạo dân tộc ta từng bước chiến thắng giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Đặc biệt, ta đã nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, để linh hoạt tổ chức lực lượng, chuẩn bị mọi mặt, xây dựng hậu phương, căn cứ địa kháng chiến, đó là sự đặc sắc của nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, của đường lối chiến tranh nhân dân, tạo nên sức mạnh to lớn cho cách mạng, mang tính quyết định cho cuộc kháng chiến toàn quốc của dân tộc ta đi tới thắng lợi.

DƯƠNG HÀ