QĐND - Đến Hội cựu chiến binh Trường Sơn TP Hồ Chí Minh, chúng tôi được mọi người giới thiệu về một thanh niên xung phong (TNXP) và đặt cho tên gọi đầy tôn trọng: “Kiện tướng rà phá bom mìn” đường 20, Trường Sơn. Ông là Phùng Văn Hải, nguyên Đại đội phó 459 TNXP (Tiểu đoàn 2, Binh trạm 14, Đoàn 559). Hiện, ông làm nghề sửa chữa điện tử, trên phố Lê Quang Định (quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh). Nghe ông kể chuyện, chúng tôi cảm tưởng như đang được xem một bộ phim nhiều tập về ký ức hào hùng của TNXP Trường Sơn trong rà phá bom mìn, mở đường “huyền thoại”.
Tháng 7-1965, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, Phùng Văn Hải, xã Thanh Thủy (Thanh Liêm, Hà Nam) tình nguyện “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Đợt đó, TNXP của huyện Thanh Liêm biên chế thành Đại đội 459 gồm: 9 tiểu đội (3 tiểu đội nữ, 6 tiểu đội nam). Có sức khỏe, thông minh, gan góc, Phùng Văn Hải được chọn làm Tiểu đội trưởng Tiểu đội 1.
 |
Ông Phùng Văn Hải miệt mài sửa chữa điện tử. |
Tháng 12-1965, Đại đội 459 có mặt tại đường 20 Trường Sơn. Đường 20, con đường của thanh niên tuổi 20, một trọng điểm đánh phá ác liệt nhất ở Trường Sơn, trong đó ngầm Ta Lê, cua chữ A, ngầm Cà Ròng trở thành những “túi bom”. Trung bình mỗi ngày, chúng oanh tạc từ 2 đến 3 lượt, còn máy bay trinh sát thì thường xuyên lượn trên đầu. Mỗi lần quần thảo, địch ném xuống nhiều loại bom mìn, cày xới chà đi xát lại, nhằm chặt đứt tuyến đường 20 huyết mạch. Bom phá đường ở đâu, TNXP lại có mặt ngay ở đó để san, lấp mở đường cho xe vào tuyến kịp thời. Nhưng để khắc phục những quả bom mìn chưa nổ là vấn đề phức tạp nhất. Hầu hết anh em trong đơn vị đều mới vào chiến trường, nên chưa nhận dạng, chưa nắm được tính năng kỹ, chiến thuật của chúng. Hằng ngày hằng giờ, bom mìn cứ lạnh lùng cướp đi sinh mạng nhiều đồng đội. Để hoàn thành nhiệm vụ, đây là thách thức lớn đối với Đại đội 459 TNXP. Ông nhớ như in: “Tại trọng điểm Km54 ngầm Cà Ròng, đường 20, khoảng giữa tháng 5-1966, cả đơn vị đang tải đạn, bất ngờ nghe nhiều tiếng nổ liên tiếp, đất đá tung lên, khói bụi mù mịt. 4 đồng đội đã hy sinh tại chỗ vì vấp phải mìn. Hầu hết thân thể không còn nguyên vẹn. Còn tại cua chữ A trước đó, tôi cùng 4 đồng đội rà phá bom mìn, nhưng mới rà được gần 200m, bỗng một tiếng nổ inh tai, làm hai đồng đội bị thương nặng”. Kể đến đây, đôi mắt ông đỏ hoe, giọng ông chùng xuống… câu chuyện kể nhiều đoạn ngắt quãng. “Hôm nay, đồng đội hy sinh vì mìn… còn hôm sau, hôm sau nữa cũng có thể đến lượt mình, nếu không có biện pháp khắc phục. Mình là cán bộ phải làm trước, nếu mình không làm được thì ai làm”. Nghĩ là làm. Để khắc phục bom mìn, cứ mỗi lần, địch rải bom mìn là Phùng Văn Hải bám sát nắm vị trí, sau đó thông báo khu vực nguy hiểm và mày mò nghiên cứu tìm biện pháp tháo gỡ. Vì thế gần như suốt ngày đêm, ông ở ngoài tuyến đường. Qua những ngày nghiên cứu, ông và đồng đội đã nắm được tính năng, nhận dạng, phân rõ từng loại bom câm, bom từ trường, mìn đè nổ, vướng nổ, bom nổ chậm... ra tay khắc phục. Thời gian đầu, ông và đồng đội chủ yếu dùng phương pháp kích nổ. Tuy nhiên, với cách này rất nguy hiểm, đặc biệt là bom từ trường rất khó tiếp cận để kích nổ. Vốn là học sinh giỏi vật lý của Trường THPT Biên Hòa, thị xã Phủ Lý (Hà Nam), ông tìm ra nguyên lý nổ của bom từ trường, là khi chúng tiếp xúc với sắt thép thì sẽ phát nổ. Lóe lên sáng kiến, Phùng Văn Hải đi chọn ngay những nắp thùng phuy đựng dầu có sẵn ở chiến trường, sau đó dùng dây rừng buộc vào nắp thùng phuy và giật cho nắp thùng phuy trượt qua vị trí có bom từ trường. Buổi thực nghiệm đầu tiên, ông gọi vui là “cuộc hy sinh thầm lặng”. Ông nhớ lại: “Tại Km57, đường 20, khoảng cuối tháng 7-1967, thấy máy bay địch lao xuống thấp, có tiếng bom nổ lớn, tôi cùng đồng chí Chính là liên lạc đại đội thận trọng bò đến gần, phát hiện một quả bom từ trường bốn cánh màu xanh đang nằm nghiêng trên mặt đường. Sau khi trinh sát vị trí, tôi buộc dây vào nắp thùng phuy để giật. Nhưng khi chiếc nắp thùng phuy di chuyển đến gần quả bom thì bị kẹt, không di chuyển được nữa. Tôi liền bảo Chính vào vị trí ẩn nấp và giữ dây để tôi bò ra xem thế nào. Khi bò vào gần đến nơi, tôi phát hiện ra nắp thùng phuy bị vướng vào một hòn đá gần sát quả bom. Tình huống thật gay go, nếu bỏ cuộc sẽ nguy hiểm cho mọi người. Còn nếu thực hiện thì cái sống và cái chết không có ranh giới. Tôi nín thở, mồ hôi túa ra, tay nắm chặt vào nắp thùng phuy khẽ nhích qua hòn đá. Thật may là quả bom vẫn câm lặng. Tôi thở phào, nhanh chóng bò trở về vị trí. Ngay sau đó, tôi cùng Chính đã hủy thành công quả bom từ trường này, lòng đầy vui sướng”. Từ đó, sau mỗi lần bom giội, tổ rà phá bom mìn phải theo dõi, trinh sát xử lý ngay, vì nếu chậm, chỉ khoảng 2 đến 3 giờ sau, máy bay Mỹ có thể quay trở lại.
Đường 20 ngày càng khốc liệt, kẻ thù sử dụng ngày càng nhiều loại vũ khí mới, tinh vi. Lần đầu tiên tại chiến trường, chúng thả “cây nhiệt đới”, một loại thu phát tín hiệu, nhưng nhiều người trong đơn vị lúc bấy giờ lo ngại, cho rằng bên trong nó là một quả mìn. Để giải thích và có biện pháp khắc phục, ông tự tìm “cây nhiệt đới” tháo ra nghiên cứu. Khi vừa tháo ra thì một tiếng nổ nhỏ và ánh lửa xòe ngay trước mặt. Qua tìm hiểu, ông mới biết, bên trong "cây nhiệt đới" chỉ có 8 cục pin tiểu và hệ thống mạch thu phát tín hiệu. Tiếng nổ đó chính là bộ phận địch chế tạo để nhằm phá hủy cấu tạo của “cây nhiệt đới” gây khó khăn cho ta trong việc tìm hiểu. Từ đó, mọi người khi gặp “cây nhiệt đới” đều bình tĩnh, nhanh chóng vô hiệu hóa.
Sau 3 năm chiến đấu, Phùng Văn Hải đã lần lượt được bổ nhiệm từ tiểu đội trưởng đến đại đội phó. Ông được điều động luân chuyển làm Đại đội phó kiêm Tổ trưởng tổ rà phá bom mìn ở tất cả các đại đội thuộc Tiểu đoàn 2, chuyên làm nhiệm vụ khắc phục bom mìn. Trong những năm từ 1965 đến 1970 của cuộc kháng chiến, giới quân sự và tình báo Mỹ nỗ lực trinh sát, tìm giải pháp, nhưng vẫn không thể giải thích được vì sao, nhiều tấn bom, mìn, nhiều loại bom, mìn hiện đại được rải xuống Trường Sơn nhưng vẫn không đem lại kết quả như chúng mong muốn. Cho đến khi cuộc chiến kết thúc, người Mỹ mới biết bom mìn mà họ ném xuống Trường Sơn đã có những “kiện tướng rà phá bom mìn” như Phùng Văn Hải vô hiệu hóa. Hàng ngàn quả bom mìn vừa được thả xuống đường 20 đã được ông cùng tổ rà phá bom mìn kịp thời khắc phục. Hơn 5 năm mở đường 20, ông được tặng “Huy hiệu Bác Hồ" ngay tại mặt trận. Ba năm liền từ (1966-1968), Phùng Văn Hải là “Chiến sĩ thi đua” của Đoàn 559.
Tháng 2-1970, hoàn thành nhiệm vụ ở chiến trường, cũng như bao người lính khác trở về làng quê, kinh tế gia đình đều hết sức khó khăn. Bằng nghị lực, sự sáng tạo của người lính, ông tự học sửa chữa được ra-đi-ô, cát-xét. Những năm 80 của thế kỷ trước, khi máy cát-xét còn lạ so với nhiều người miền Bắc thì ông đã là một trong những người đầu tiên của tỉnh Hà Nam chế được đầu từ máy cát-xét. Năm 1985, ông chuyển vào TP Hồ Chí Minh làm nghề sửa chữa điện tử. Mặc dù hiện nay tuổi cao, sức khỏe có hạn, nhưng hằng ngày sau những giờ miệt mài bên những đồ điện tử dây, mạch nhằng nhịt, ông luôn dành thời gian thăm hỏi, chia sẻ giúp đỡ đồng đội trong cuộc sống.
Bài và ảnh: NGUYỄN DUY HIỂN