QĐND - “Một lần bị đau ruột thừa cấp, tôi được đưa tới bệnh viện Hải quân của Hạm đội Nam Hải, Trung Quốc ở Hải Khẩu để phẫu thuật. Ở đây tôi và các thủy thủ khác trong Đoàn tàu không số đã được chứng kiến tình cảm và quan tâm của các y, bác sĩ Trung Quốc đối với các thủy thủ Việt Nam. Với riêng tôi, lần đi viện ấy là cơ hội hiếm có giúp tôi “nâng cao” trình độ tiếng Trung. Với chút vốn tiếng Trung ít ỏi, tôi có thêm nhiều bạn người Trung Quốc và hiểu thêm về đất nước và con người Trung Hoa”, ông Nguyễn Đức Đạm, một cựu chiến binh Đoàn tàu không số chia sẻ với phóng viên Báo Quân đội nhân dân.
 |
Cựu chiến binh Nguyễn Đức Đạm
|
Trong mạch câu chuyện kể về bệnh viện ở Hải Khẩu, ông Đạm cho biết, trong 10 năm Đoàn tàu không số neo tại cảng Hậu Thủy, có khá nhiều trường hợp thủy thủ của Đoàn đã từng được điều trị tại bệnh viện này. Khi ra về, hầu hết thủy thủ đều ca ngợi tinh thần tận tâm, tận tụy của các bác sĩ Trung Quốc. Kể về bệnh viện này, ông Lưu Lanh, một cựu chiến binh trong Đoàn tàu không số, người cùng tàu với ông Đạm kể lại: “Tại bệnh viện Hải quân ở Hải Khẩu, có hai phòng lớn dành riêng cho thủy thủ Việt Nam. Khi không có bệnh nhân Việt Nam, hai phòng này đóng cửa. Bác sĩ khám chữa bệnh cũng là những người giỏi nhất viện. Mỗi khi có thủy thủ trong Đoàn tàu không số bị bệnh cần đi viện, phía bạn có ô tô đưa đón. Tại bệnh viện, thủy thủ trong Đoàn được cứu chữa tận tình, ân cần. Một số bệnh nhân và y, bác sĩ Trung Quốc tại đó cũng đoán lờ mờ, những thủy thủ Việt Nam này chắc đang thực hiện nhiệm vụ gì đó rất quan trọng. Nhưng tuyệt nhiên không ai hỏi gì về công việc”.
Tôi thắc mắc hỏi ông Nguyễn Đức Đạm rằng, bận bịu như thế, hết huấn luyện lại học tập chính trị, rồi khi ông đi viện, chắc cũng chỉ một tháng, ông tự học ngoại ngữ vào lúc nào? Trầm tư một lát, dường như để sắp xếp lại ký ức ăm ắp của hơn 40 năm đã qua, ông Đạm chậm rãi kể về quá trình học tiếng Trung Quốc của mình. “Năm 1964, tôi đang học Trường Trung cấp Cơ điện Hà Nội, thì được Quân chủng Hải quân về tuyển chọn. Tôi chính thức nhập ngũ và trở thành chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam. Về Hải quân, tôi được huấn luyện, sau đó làm việc trên tàu chở dầu rất hiện đại, do Cộng hòa dân chủ Đức (cũ) viện trợ. Con tàu này sau đó được biên chế vào Đoàn tàu không số (Đoàn 125). Chúng tôi đi theo biên chế của tàu, vì vậy tôi chính thức trở thành thủy thủ của Đoàn tàu không số và sang cảng Hậu Thủy của Trung Quốc làm nhiệm vụ. Còn việc học tiếng Trung của tôi cũng tình cờ và “gian nan” lắm. Trong những lúc đứng gác hay lúc rảnh khi không luyện tập, tôi lại mang cuốn sách dạy tiếng Trung của học sinh lớp 9 (hệ cũ) ra tự học. Thế hệ chúng tôi ngày xưa không có nhiều tài liệu như bây giờ. Thật thà thì tôi cũng sợ tiếng Trung lắm, vì nó khó. Khi nhận lệnh sang Trung Quốc công tác, tôi đã ý thức được rằng, để có thêm hiểu biết về đất nước và con người nơi mình sống, cần phải có ngôn ngữ. Tuy nhiên, để bảo đảm nguyên tắc tuyệt đối bí mật về nhiệm vụ, mọi thủy thủ thành viên Đoàn tàu không số không được tiếp xúc với người dân và thậm chí cả cán bộ, chiến sĩ phía Trung Quốc, nếu không có nhiệm vụ. Do vậy là quá trình tự học của tôi gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều chỗ khó cũng không biết hỏi ai”, ông Đạm cho biết.
Ông Đạm kể rằng, để có một chút vốn tiếng Trung, cũng cần tới sự may mắn. “Quá trình tự học của tôi thực sự "phát" từ khi tôi đi viện. Đúng hôm tàu tôi được lệnh phải tới khu vực Lưu Sa để tránh bão, tôi bị đau ruột thừa cấp. Quân y đơn vị khám cho tôi rồi điện cho tàu ra đón và đưa tôi tới bệnh viện Hải quân ở Hải Khẩu. Thời điểm đó đúng dịp Tết Mậu Thân năm 1968. Ca phẫu thuật đã thành công. Tôi phải nằm lại viện một thời gian. Lúc nằm viện, có thời gian tôi giở sách ra học. Các cô y tá rất khâm phục tinh thần chăm chỉ học của tôi, thi thoảng các nữ y tá có nói chuyện và tôi hiểu họ nói gì. Tôi nói với họ, tôi muốn họ giúp trong học tập, vậy là trong vòng gần một tháng ở viện, cứ hết giờ hành chính, ngày nào các cô y tá cũng thay phiên nhau tới dạy tiếng Trung cho tôi. Thời gian đó thật quý báu, có “thầy” tận tình, tôi đem hết những thắc mắc ra hỏi, rồi được các “thầy” chỉ bảo, tôi tiến bộ khá nhanh. Quả thật, khi nói được một chút tiếng Trung, tôi nhận được nhiều hơn sự quý mến từ những người Trung Quốc”.
Tôi nói vui: “Có cô nào cảm tình riêng với ông không?”. Ông khẳng định ngay: “Không, tuyệt đối không. Khi đó tình cảm quốc tế thiêng liêng lắm. Chúng tôi sống chân thành, chia sẻ tình cảm cũng rất chân thành, tuyệt nhiên không có chút tình riêng nào. Các cô rất thân thiện nhưng thẳng thắn và nghiêm túc lắm”. Kể đến đây, như để chứng minh cho thành quả của mình, ông Đạm hồ hởi khoe: “Trong lần đi du lịch mới đây sang Ma-lai-xi-a, tới khu có người Hoa, tôi có thể giao dịch, mua bán được đấy”.
Ông Đạm cho biết thêm, sau khi có “lưng vốn” tiếng Trung kha khá, ông đã mạnh dạn hẳn lên, đi đâu gặp người Trung Quốc cũng mạnh dạn nói chuyện, hỏi han học tập. Một trong số người giúp ông tự học tiếng Trung chính là phiên dịch người Trung Quốc, ông Hoàng Nguyên (đã đề cập trong số báo ra ngày 7-10-2011). Có từ nào khó, câu khó, hay bất cứ khi nào thấy ông Nguyên rỗi rãi, ông đều mạnh dạn hỏi và trao đổi. Từ chỗ học tiếng Trung với nhau, tình cảm ấy khiến ông trở lên thân thiết với ông Hoàng Nguyên. Qua ông Hoàng Nguyên, ông Đạm đã hiểu hơn về Trung Quốc, rồi từ những con người như ông Đạm, ông Hoàng Nguyên cũng hiểu rõ sự khốc liệt của những ngày tháng chiến tranh tại Việt Nam.
Câu chuyện, tình cảm, sự sẻ chia của ông Đạm với ông Nguyên hay với các y tá Trung Quốc là minh chứng sống động cho tình đoàn kết quốc tế của hai dân tộc trong những giờ phút khó khăn nhất.
Bài và ảnh: NGUYỄN HÒA