 |
Đường Trường Sơn. Ảnh tư liệu |
Địa hình nước ta dọc theo đất nước có nhiều sông ngòi: trung bình cứ 5 - 10km có một sông suối hẹp 10 - 20m; 15 - 20km có một sông rộng khoảng 100m; 30 - 50km có một sông rộng khoảng 300m trở lên, vì vậy, trong tác chiến chiến dịch, bảo đảm vượt sông là một việc làm thường xuyên. Mặc dù trong phương án tác chiến người chỉ huy đã cố gắng chọn hướng tiến công thích hợp, ít sông ngòi. Bảo đảm vượt sông nhanh chóng, bí mật, an toàn trở thành một khâu quan trọng của bảo đảm cơ động. Chọn cách tổ chức vượt sông phù hợp với từng tình huống của chiến dịch là một yêu cầu tác chiến.
Vượt sông thuận lợi, cùng với mạng đường quân sự rộng khắp các địa bàn chiến lược sẽ góp phần quan trọng cơ động chiến dịch, chiến lược, đưa binh khí kỹ thuật vào sát các mục tiêu nhằm tăng cường khả năng cơ động, đột kích, hoả lực cho các hướng.
Cơ động chiến dịch, chiến lược qua tổng kết thường có những dạng sau đây: Cơ động đường dài từ hậu phương chiến lược vào vị trí tập kết; đó là trường hợp của Quân đoàn 1 hành quân cấp tốc trên quãng đường 1.500km từ hậu phương lớn vào Đồng Xoài để tham gia chiến dịch Hồ Chi Minh. Cơ động từ hướng chiến lược này sang hướng chiến lược khác; đó là trường hợp của Quân đoàn 3, sau khi giải phóng Tây Nguyên, cơ động theo đường số 14 vào tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Vừa hành quân vừa đánh địch, cơ động từ địa bàn chiến lược này sang địa bàn chiến lược khác. Đó là trường hợp của Quân đoàn 2, sau khi tham gia chiến dịch Huế - Đà Nẵng đã cơ động theo đường số 1, vừa đi vừa đánh địch ở Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân, cuối cùng vào vị trí tập kết tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh.
Về cơ động chiến dịch có thể ví dụ việc mở đường kịp thời ở Đắc Tô, Tân Cảnh năm 1972 cho xe tăng bất ngờ đánh hướng địch không ngờ tới, giành thắng lợi nhanh chóng, trong điều kiện hoả lực, phi pháo của Mỹ-Nguỵ rất hùng hậu. Hoặc mở đường chiến dịch ở Thượng Đức năm 1974, bảo đảm cho hoả lực pháo, hoả lực phòng không tham gia đánh địch…
Theo số liệu tổng kết một trung đoàn công binh làm đường trên địa hình trung bình có khối lượng 3.500 - 4.000m3/km, một tháng thường chỉ làm được 11km đường quân sự làm gấp. Đế quốc Mỹ đã phải mất 7 năm chuẩn bị mạng đường sá ở miền Nam Việt Nam trước khi đưa quân Mỹ vào tác chiến.
Trục đường tây Trường Sơn là đường đất, khi có lưu lượng xe lớn, đường xuống cấp nhanh, có nhiều "ổ gà" làm tốc độ xe giảm, xe dễ hư hỏng. Vì vậy, Quân đoàn 1 cơ động theo trục đường Trường Sơn năm 1975, trung bình một ngày đêm chỉ đi được 100km. Trong khi đó, Quân đoàn 2 cơ động theo đường 1, tuy phải vượt qua nhiều cầu cống bị phá, nhưng nhờ chất lượng đường tốt đã hành quân 1 ngày đêm hằng trăm ki-lô-mét, nhanh chóng đưa kịp đội hình vào chiến đấu ở nam Khu 5.
Trung đoàn cầu thuyền 249 từ miền Bắc vào tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh đi theo đường tây Trường Sơn , đường xấu nên nhiều xe bị hỏng, do đó tập kết đội hình không gọn, phải kéo dài nhiều ngày. Trong khi đó, Trung đoàn cầu thuyền 239 với chất lượng kém hơn, nhưng hành quân theo đường số 1 chất lượng tốt, nên đã vào tập kết nhanh, gọn, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm cơ động ở Khu 5.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, trung bình một ngày đêm có trên 2.000 xe cơ động trên một trục với tốc độ trung bình 40km/giờ. Đường chiến dịch phải đáp ứng yêu cầu cơ động của các binh khí kỹ thuật nặng, cồng kềnh, vận chuyển hậu cần quy mô lớn, bảo đảm kịp thời việc cơ động và chuyển hoá đội hình tiến công. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, đã có 300 - 500 xe cơ động một ngày đêm trên một trục với tốc độ 30km/giờ, bảo đảm đường sá để bộ đội và binh khí kỹ thuật cơ động từ xa đến triển khai đội hình nhanh và tiến công được ngay.
 |
Đường Trường Sơn. Ảnh tư liệu |
Trường hợp các đơn vị đánh Buôn Ma Thuột tháng 3-1975, cách đánh vào thị xã là bí mật, bất ngờ, dùng sức mạnh binh chủng hợp thành thọc sâu vào trung tâm đầu não quân địch ngay từ đầu. Nhiệm vụ công binh là mở đường, tổ chức vượt sông, bảo đảm cho bộ đội tập kết cách mục tiêu tiến công 20 - 30km trong đêm 9 tháng 3 nhanh chóng, đồng nhịp vào chiếm lĩnh trận địa và tiến công ngay. Một ngày trước đó, công binh phải làm mọi công tác chuẩn bị hết sức bí mật. Các gốc cây ở sát nương rẫy mà dân thường qua lại, thì dùng cưa xén 3/4 đường kính theo hưởng tiến công, rồi ngụy trang, xoá dấu vết. Trước khi bắt đầu tiến công thì cưa nốt phần còn lại hoặc để xe tăng đè đổ trong khi cơ động. Những chỗ cần dùng bộc phá để mở đường thì đào lỗ, chuẩn bị sẵn lượng nổ, đợi khi nổ súng, lợi dụng tiếng nổ của pháo tiến công thì điểm hoả. Với những biện pháp như vậy công binh đã đảm bảo cho bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa bí mật, an toàn, tiến công đúng thời gian quy định.
Bảo đảm vượt sông và khắc phục sông ngòi trong chiến dịch cũng là vấn đề quan trọng. Trong cuộc Tổng tiến công Xuân 1975, việc bảo đảm vượt sông diễn ra với quy mô chưa từng có trên nhiều chiến trường từ Tây Nguyên đến Khu 5, Nam Bộ, trong điều kiện địa hình phức tạp và tình huống diễn biến rất khẩn trương. Công binh đã sử dụng tất cả các phương thức: phà, ngầm, cầu nổi, cầu cứng... khắc phục sông, ngòi, lạch ở 375 điểm (khoảng 11% số chướng ngại thiên nhiên trên các đường), trong đó phải tổ chức vượt sông ở 56 điểm.
Phải kể đến chiến công bí mật vượt sông sát địch triển khai đội hình tiến công, như trong chiến dịch Tây Nguyên, tổ chức cho bộ đội và binh khí kỹ thuật của sư đoàn 316, đánh hướng tây, bí mật, bất ngờ vượt sông Sê Rê Pốc (rộng 100m) ở sát địch.
Nhờ có mạng đường sá chiến dịch chiến lược, có sẵn và làm mới, tốc độ cơ động của bộ đội tăng lên nhanh chóng.
Theo đó xe tăng, xe bọc thép, pháo binh xe kéo, pháo cao xạ chiến dịch, hậu cần, đạn dược được triển khai kịp ý định tác chiến của người chỉ huy. Đường quân sự đã bảo đảm cho 3 nhân tố: Cơ động, đột kích, hoả lực luôn thuận lợi, người chỉ huy chủ động dụng mưu, cài thế đánh hiểm, buộc địch nhanh chóng suy sụp.
Những bài học vì thiếu đường cơ động ở chiến trường Lào, thiếu binh khí kỹ thuật, đạn, gạo, thuốc men ở Tây Nguyên cuối những năm 1960… càng khiến chúng ta thấm thía về vai trò của công binh mở đường cơ động trong tác chiến.
Trong chiến tranh BVTQ, đất nước ta có địa hình trải dài theo nhiều vĩ độ, thế chiến lược phòng thủ trên từng khu vực rất cần coi trọng mở mang các mạng đường chiến dịch, chiến lược, sao cho trong mùa khô, mùa mưa không bị chia cắt địa hình, bảo đảm các vùng, miền, khu vực, kể cả biển đảo sẵn sàng ứng cứu, hỗ trợ khi tình huống khẩn trương ác liệt.
TRẦN DANH