Trong 30 năm tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã viết nên những chiến công rực rỡ nhất trong cuốn sử vàng chống ngoại xâm của dân tộc. Có rất nhiều bài học kinh nghiệm quý giá của Đảng ta về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng và chiến lược quân sự, trong đó đánh địch trên ba vùng chiến lược là một điển hình.

Đánh địch trên ba vùng chiến lược là một sáng tạo của Đảng ta trong sự nghiệp cách mạng lãnh đạo toàn dân đứng lên lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành lại nền độc lập, tự do cho dân tộc. Trên cơ sở kế thừa và phát triển kinh nghiệm chỉ đạo cuộc vận động cách mạng và khởi nghĩa giành chính quyền trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 và 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đề ra phương châm: đánh địch trên cả ba vùng chiến lược với những hình thức thích hợp. Đây là một nội dung quan trọng của phương pháp tiến hành chiến tranh cách mạng để giành lấy mục tiêu cách mạng. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo thành công học thuyết cách mạng và chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lê-nin trong điều kiện cụ thể của cách mạngViệt Nam.

Vùng rừng núi nước ta chiếm 3/4 diện tích cả nước, đồi núi nhiều, không cao nhưng kín đáo, nhiều dốc, lắm đèo rất hiểm trở. Với địa hình như thế, từ xa xưa, trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước, Tổ tiên ta từng coi đây là vùng “Quan hà bách nhị do thiên thiết” (Nơi địa hình hiểm yếu, một người địch được 200 người); trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Đảng ta coi đây là vùng “căn bản” có vị trí đặc biệt quan trọng, đủ điều kiện để có thể tiêu diệt quân chủ lực của địch, đồng thời là nơi phát triển lực lượng, xây dựng và mở rộng căn cứ địa của ta. Đặc biệt, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vùng rừng núi miền Nam (nhất là Tây Nguyên được ví như nóc nhà của nam Đông Dương) giữ vị trí chiến lược trọng yếu cho cả miền Nam và nam Đông Dương. Tại đây, ta xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh, có khả năng tiêu diệt nhiều sinh lực địch, có thể duy trì cuộc chiến đấu lâu dài chống địch trong những tình hình diễn biến khó khăn nhất; đồng thời, lại có khả năng mở rộng hoạt động xuống vùng đồng bằng. Làm chủ vùng rừng núi gắn liền với vùng đồng bằng đã được giải phóng, chúng ta đã tạo ra sự uy hiếp lớn đối với những đô thị còn bị địch chiếm đóng. Khi thời cơ đến, chúng ta lấy đây làm địa bàn xuất phát những cuộc tiến công lớn quân địch trong những giai đoạn quyết định của cuộc chiến tranh: ba đòn tiến công chiến lược năm 1972, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nông thôn miền Nam là chỗ mạnh của ta đồng thời cũng là chỗ mạnh của địch. Tại đây, địch tổ chức kiến thiết chiến trường tương đối vững chắc, hoàn chỉnh: các căn cứ hỏa lực, không quân, hải quân, pháo binh; các khối dự bị chiến lược - chiến dịch mạnh; kho tàng, bến bãi, hệ thống đường giao thông dày đặc... Tất cả nhằm tạo lá chắn bảo vệ cơ quan đầu não của địch từ trung ương đến cơ sở. Với ta, nông thôn là nơi tập trung dân cư, đa số là nông dân. Nông dân nước ta được xác định là một trong những lực lượng chủ lực của cách mạng dân tộc, dân chủ, là nguồn cung cấp, bổ sung chủ yếu cho việc xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang nhân dân. Kinh tế nông nghiệp rất thích hợp với việc vận dụng và duy trì chiến tranh nhân dân chống chiến tranh xâm lược trong điều kiện vật chất, kỹ thuật yếu hơn địch. Sức mạnh nông thôn của ta là sức mạnh to lớn cả về chính trị, kinh tế và quân sự. Làm chủ được vùng nông thôn đồng bằng thì vùng rừng núi không bị cô lập và ta có thể huy động được sức người, sức của để phát triển lực lượng của ta ở vùng đồng bằng và rừng núi.

Vùng đô thị miền Nam trong chiến tranh giải phóng là trung tâm chính trị và kinh tế của địch, là nơi có những cơ quan đầu não của chúng, là nơi địch tập trung nhiều phương tiện thống trị và lực lượng đàn áp mạnh; căn cứ xuất phát để đánh phá cách mạng. Âm mưu cơ bản của địch là ra sức xây dựng lực lượng ở đô thị làm “hậu phương an toàn” cho cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới. Đối với ta, vùng đô thị là nơi quần chúng, nhất là giai cấp công nhân tập trung đông đảo, có giác ngộ chính trị, luôn luôn hướng về cách mạng. Không những công nhân, dân nghèo thành thị, tiểu tư sản, học sinh mà cả một số trí thức, sinh viên, tư sản dân tộc, với mức độ khác nhau, căm thù ách thống trị của Mỹ-ngụy, có nguyện vọng bức thiết muốn thay đổi chế độ... do đó đã nhiều lần đứng lên đấu tranh mạnh mẽ; khi có điều kiện, thời cơ, quần chúng ở đô thị có khả năng nổi dậy đấu tranh, phối hợp với lực lượng từ ngoài tiến vào đánh đổ chính quyền của địch. Trong các cuộc chiến tranh giải phóng trước đây của Tổ tiên ta cũng như trong kháng chiến chống chống Mỹ, cứu nước, vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, chúng ta đều tiến công vào thị trấn, thị xã, thành phố, đô thị, nhằm đập nát “đầu rắn”, giành lại độc lập, tự do cho đất nước.

Căn cứ vào vị trí chiến lược của mỗi vùng, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã đề ra những phương thức đấu tranh thích hợp cho từng giai đoạn kháng chiến trên tất cả các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa-xã hội..., đánh đổ địch từng bước, từng bộ phận, tiến lên đánh đổ chúng hoàn toàn.

Mỗi vùng chiến lược có một vị trí quan trọng riêng và giữa chúng luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau trong chiến tranh giải phóng trước đây cũng như trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Vì thế, trong nhận thức tư tưởng cũng như trong quá trình xây dựng, không coi nhẹ hoặc tuyệt đối hóa tầm quan trọng của bất cứ vùng nào, từ đó có giải pháp đồng bộ, phối hợp giữa mỗi vùng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN./.

Thế Vỵ (Tạp chí QPTD)