QĐND - Trong đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm về chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân là những quan điểm cơ bản, bắt nguồn từ tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta và từ nhận thức đúng đắn của Đảng về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử: “Nước lấy dân làm gốc. Trong cuộc kháng chiến, kiến quốc, lực lượng chính là ở dân”; “Khi cả một dân tộc đã đoàn kết lại quyết tâm chiến đấu vì quyền sống trong độc lập tự do của mình, thì không quân đội nào, súng bom nào có thể chống lại được”.

Chiến tranh nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh do toàn dân Việt Nam tiến hành một cách toàn diện nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng triệt để nhân dân lao động, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; mang tính chất “của dân, do dân, vì dân”; với nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân được xây dựng trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng; được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển lên một tầm cao mới phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, tinh hoa quân sự của nhân loại.

Quốc phòng Việt Nam là công cuộc giữ nước của quốc gia, gồm tổng thể hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học... của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên sức mạnh toàn dân, toàn diện, cân đối, với sức mạnh quân sự là đặc trưng, nhằm giữ vững hòa bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mô. Quốc phòng Việt Nam được hình thành, phát triển trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, phát triển lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước...; mang tính chất “của dân, do dân, vì dân” và xây dựng theo hướng toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng, củng cố nền quốc phòng Việt Nam là trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị với lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.

Như vậy, cả trong tiến hành chiến tranh nhân dân và xây dựng, củng cố quốc phòng toàn dân, Đảng là người lãnh đạo và Nhà nước quản lý, điều hành (khi giành được chính quyền), nhân dân làm chủ; đều vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đều do nhân dân tiến hành một cách toàn diện với lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt...

Tự vệ Việt Nam trong diễu binh, diễu hành kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 5-2014. Ảnh: Minh Trường

Trên cơ sở lấy dân “làm gốc”, động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân với ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Trong “Nghị quyết về đội tự vệ” do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất thông qua, Đảng khẳng định dân quân tự vệ có vai trò chiến lược to lớn đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam: “Tự vệ đội càng mạnh thì tức là có điều kiện thuận lợi để sau này tổ chức du kích chiến tranh và vũ trang bạo động”; đồng thời, xác định những vấn đề về tổ chức, chỉ đạo, xây dựng, huấn luyện và hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ. Đây là sự tiếp nối và cụ thể hơn quan điểm của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10 năm 1930, khi Đảng chỉ ra: “Mục đích của Đảng là lãnh đạo quần chúng võ trang bạo động. Phải tổ chức bộ phận quân sự; giúp cho công, nông hội tổ chức đội tự vệ”.

Cùng với sự phát triển của cách mạng, Đảng dần hoàn thiện quan điểm, đường lối quân sự và chỉ rõ: Muốn tiến hành chiến tranh nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân thì phải “vũ trang toàn dân”, phát động toàn dân đánh giặc. Ngoài việc tổ chức ra bộ đội chủ lực thì phải tổ chức bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Sự ra đời, phát triển của lực lượng dân quân tự vệ là quy luật phổ biến trong duy trì sức mạnh quân sự, quốc phòng đất nước và là nghệ thuật tổ chức lực lượng vũ trang, là kế thừa kế sách giữ nước của Tổ tiên. Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của nhân dân, gắn bó mật thiết với quê hương, làng bản, với từng đường phố, nhà máy, xí nghiệp, nông-lâm trường và sống, chiến đấu vì nhân dân, trong lòng nhân dân, được nhân dân dạy dỗ, chở che, đùm bọc. Lực lượng dân quân tự vệ là thành tố tạo cơ sở vững chắc, rộng rãi nhất của đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang nhân dân; là lực lượng chiến lược của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam trong đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành chiến tranh nhân dân và xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân; là công cụ chuyên chính của tổ chức đảng và chính quyền cơ sở; là lực lượng dự bị vô tận của Quân đội nhân dân Việt Nam và là trường học chuẩn bị mọi mặt cho thanh niên làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Một trong những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng, củng cố lực lượng dân quân tự vệ hùng hậu, rộng khắp, có chất lượng cao trên cơ sở nhân dân vũ trang và chất lượng chính trị vững chắc. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ là trách nhiệm của các cấp, các ngành, của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp dân quân tự vệ và sự lãnh đạo của Đảng là nguồn gốc, nguyên tắc cơ bản, nhân tố quyết định quá trình trưởng thành, chiến thắng của lực lượng dân quân tự vệ Việt Nam; Nhà nước quản lý, chỉ huy là nhân tố cơ bản, giữ vai trò chủ đạo bảo đảm thống nhất hoạt động của lực lượng dân quân tự vệ; Nhân dân là nền tảng sức mạnh và chỗ dựa vững chắc của lực lượng dân quân tự vệ... Nâng cao sức mạnh tổng hợp của dân quân tự vệ phải lấy chất lượng làm chính đồng thời bảo đảm số lượng, cơ cấu biên chế tổ chức hợp lý, được huấn luyện và quản lý tốt, từng bước nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu...

Trên nhận thức và tư tưởng chỉ đạo đó, lực lượng dân quân tự vệ và du kích Việt Nam luôn trung thành với Đảng, với nhân dân, ngày càng phát triển cùng sự phát triển của cách mạng. Từ hình thức tổ chức ban đầu là các đội tự vệ và tự vệ chiến đấu, lực lượng dân quân tự vệ đã từng bước được thống nhất về tổ chức, trở thành lực lượng vũ trang đông đảo của Đảng không thoát ly sản xuất; được tổ chức ở khắp các địa phương, cơ sở trên cả nước; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của tổ chức đảng và sự quản lý của chính quyền các cấp, do cơ quan quân sự địa phương trực tiếp chỉ huy.

Trong cuộc chiến đấu gay go quyết liệt để giữ làng, giữ nước, dân quân tự vệ đã nêu cao tinh thần chủ động tích cực tiến công địch bằng phương thức tác chiến phân tán nhỏ, rộng khắp; có mặt và sẵn sàng đánh địch ở bất cứ nơi nào quân địch đặt chân đến; lấy cách đánh bí mật, bất ngờ, luồn sâu, đánh hiểm bằng mọi thứ vũ khí của nhân dân làm cách đánh của mình, hình thành thế trận xen kẽ, cài răng lược với địch... Lực lượng dân quân tự vệ đã cùng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương trở thành lực lượng chủ yếu tiến hành chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch và bảo vệ hậu phương rộng lớn của ta; phối hợp với bộ đội chủ lực chuẩn bị chiến trường và trực tiếp đánh địch tại chỗ; hỗ trợ đắc lực cho phong trào nổi dậy của nhân dân đấu tranh giành và giữ chính quyền, làm chủ ở cơ sở... phát huy cao độ sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân, góp phần phát triển lối đánh truyền thống độc đáo của dân tộc Việt Nam “nhỏ đánh lớn”, “ít địch nhiều” lên tầm cao mới, làm cơ sở cho sự hình thành và phát triển lối đánh chính quy, hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.

Trong hòa bình, quán triệt và thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng, lực lượng dân quân tự vệ Việt Nam được chú trọng củng cố, xây dựng cùng với việc tăng cường xây dựng quân đội thường trực. Dân quân tự vệ đã trở thành lực lượng hậu thuẫn của quần chúng nhân dân ở cơ sở trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội; là công cụ chủ yếu của nền chuyên chính của giai cấp công nhân để trấn áp mọi phần tử phá hoại sự nghiệp cách mạng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân ở cơ sở và tham gia lao động sản xuất, xây dựng quê hương...

Suốt chặng đường lịch sử oanh liệt và vẻ vang của mình, dân quân tự vệ Việt Nam tự hào có nhân dân, có Đảng; Đảng, nhân dân tự hào có dân quân tự vệ. Dân quân tự vệ góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân giành những thắng lợi lịch sử trong chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.

Lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã minh chứng: Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, sự che chở, nuôi dưỡng, giáo dục, rèn luyện và đùm bọc của nhân dân... mà dân quân tự vệ và du kích Việt Nam đã ngày càng trưởng thành, phát triển, trở thành của dân, vì dân. Trong mọi thời kỳ, dân quân tự vệ luôn là một lực lượng chiến lược quan trọng, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân ghi nhận: “Là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã"(*).

Ghi nhận những công lao và thành tích của lực lượng dân quân tự vệ và du kích qua các thời kỳ, hàng trăm tập thể và cá nhân dân quân tự vệ được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó tiêu biểu là Đại đội nữ dân quân Ngư Thủy (Lệ Thủy, Quảng Bình), Đại đội nữ dân quân Tiền Hải (Thái Bình), Trung đội lão dân quân Hoằng Hóa (Thanh Hóa), dân quân du kích huyện Củ Chi (TP Hồ Chí Minh), huyện Giồng Trôm, Mỏ Cày (Bến Tre) v.v.. và hàng nghìn, hàng vạn cá nhân dân quân tự vệ và du kích anh hùng tiêu biểu khác đã góp phần tô thắm thêm những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Hiện nay, tình hình thế giới đã và đang tiếp tục diễn biến rất phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố bất trắc, khó lường và xuất hiện nhiều loại hình chiến tranh, phương thức tác chiến mới... Ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục diễn ra quyết liệt; tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo vẫn phức tạp. Đối với nước ta, bên cạnh những thành tựu đạt được thì những nguy cơ, thách thức mà Đảng cảnh báo vẫn hiện hữu; các thế lực thù địch vẫn đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ... Trong tương lai, nếu xảy ra một cuộc chiến tranh xâm lược đối với nước ta thì để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chúng ta vẫn phải tiến hành chiến tranh nhân dân do nhân dân Việt Nam tiến hành một cách toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng dân quân tự vệ vẫn là một lực lượng chiến lược, rộng khắp. Để dân quân tự vệ phát huy tốt truyền thống, làm tròn nhiệm vụ, cần làm tốt các vấn đề sau:

Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng và sự quản lý, điều hành thống nhất của chính quyền các cấp đối với dân quân tự vệ. Theo đó, cấp ủy, chính quyền, cơ quan quân sự các cấp cần quán triệt sâu sắc hơn nữa đường lối quân sự của Đảng, nhận rõ đặc điểm tình hình hiện nay và yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trước mắt cũng như về lâu dài, tùy theo phạm vi trách nhiệm của mình mà tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, thúc đẩy xây dựng dân quân tự vệ thật sự là lực lượng trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống, nhất là ở các vùng trọng điểm về quốc phòng, an ninh, địa bàn chiến lược và những nơi có vấn đề phức tạp. Trong đó, chú trọng quán triệt và thực hiện đúng mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo và những nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25-10-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lư¬ợc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” đã đề ra; các chủ trương, phương hướng, giải pháp xây dựng dân quân tự vệ trong từng thời kỳ; nguyên tắc tổ chức và hoạt động của dân quân tự vệ, đặc biệt là cơ chế Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp đối với dân quân tự vệ. Xác lập và thực hiện chế độ công tác, quy chế làm việc, quyền và nghĩa vụ của các cấp bộ đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức các cấp về dân quân tự vệ. Lãnh đạo chính quyền bổ sung hoàn thiện các kế hoạch quân sự, quốc phòng, xử trí các tình huống, huấn luyện dân quân tự vệ, giáo dục quốc phòng cho nhân dân… Cơ quan quân sự các cấp cần phát huy vai trò nòng cốt trong tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền các cấp ban hành nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo dân quân tự vệ phù hợp tình hình thực tế. Đề cao vai trò, trách nhiệm của thủ trưởng các ngành, đơn vị trong cụ thể hóa, thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ và quy định đối với dân quân tự vệ; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh; đầu tư ngân sách, cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện chế độ, chính sách, xây dựng và hoạt động của dân quân tự vệ. Lãnh đạo các ngành, các đoàn thể địa phương, quần chúng tham gia xây dựng lực lượng dân quân tự vệ. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện và lấy kết quả xây dựng lực lượng dân quân tự vệ làm tiêu chí để đánh giá kết quả hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan quân sự. Đề cao vai trò nòng cốt của đảng viên trong dân quân tự vệ đồng thời làm tốt công tác phát triển Đảng trong lực lượng dân quân tự vệ. Trong lãnh đạo, chỉ đạo không khoán trắng cho cơ quan quân sự địa phương hoặc buông lỏng.

Trên cơ sở nắm vững quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng và Luật Dân quân tự vệ, các địa phương, các ngành, các cấp và các tổ chức có liên quan cần tiếp tục củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của ban chỉ huy quân sự cấp mình, ngành mình. Rà soát, củng cố và kiện toàn tổ chức biên chế dân quân tự vệ theo đúng phương châm vững mạnh, rộng khắp, có chất lượng cao; củng cố đi đôi với phát triển, phát triển tích cực đồng thời phải vững chắc, chặt chẽ, không ồ ạt; số lượng đi đôi với chất lượng, có tỷ lệ và cơ cấu hợp lý giữa lực lượng nòng cốt và rộng rãi, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương, cơ sở. Chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ ở các địa bàn chiến lược, trọng điểm như biên giới, biển, đảo. Tuyển chọn, kết nạp công dân vào dân quân tự vệ chặt chẽ, đúng tiêu chuẩn. Thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân cử, dân chăm lo” trong xây dựng dân quân tự vệ. Huấn luyện dân quân tự vệ theo từng đối tượng, đúng chương trình, nội dung quy định sát với tình hình, nhiệm vụ, địa bàn, hết sức coi trọng huấn luyện quân sự, rèn luyện dân quân tự vệ biết xử lý các tình huống, biết đánh giặc theo cách đánh của dân quân tự vệ. Từng bước trang bị vũ khí và phương tiện tác chiến tương đối hiện đại và thích hợp cho dân quân tự vệ đi đôi với chú trọng cải tiến vũ khí, trang bị hiện có. Xây dựng cơ quan quân sự và đội ngũ cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm công tác quân sự, quốc phòng, cán bộ dân quân tự vệ có phẩm chất, năng lực đủ sức làm tốt vai trò tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy và quản lý tốt dân quân tự vệ trong thời kỳ mới.

Đặc biệt, cần chú trọng xây dựng lực lượng và thế trận dân quân tự vệ biển, đảo trên cơ sở nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ biển, đảo cho toàn dân, nhất là nhân dân các địa phương có biển, đảo. Phối hợp chặt chẽ hoạt động của dân quân tự vệ biển và lực lượng hải quân, biên phòng, cảnh sát biển, kiểm ngư¬¬, các lực lượng có liên quan đến khu vực phòng thủ biển, đảo theo chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động để làm chỗ dựa cho nhân dân làm ăn, sinh sống, tổ chức nhân dân làm "tai mắt" phát hiện các hành vi lấn chiếm biển, đảo tạo thành thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Khối nữ dân quân các dân tộc Tây Bắc trong diễu binh, diễu hành kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 5-2014. Ảnh: Minh Trường.

Bằng nhiều hình thức, biện pháp, cách thức và các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, lực lượng dân quân tự vệ nắm vững nội dung các văn bản của Đảng, Nhà nước, Bộ Quốc phòng về tình hình và nhiệm vụ quốc phòng, quân sự, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ trong tình hình mới, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng về tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lư¬ợc bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”... Giáo dục, bồi dưỡng nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm và kiến thức của mỗi người dân và mỗi ngành, đoàn thể đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Phát động phong trào quần chúng tự giác tham gia xây dựng lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ. Tập trung đổi mới nội dung và cách thức tổ chức giáo dục quốc phòng và an ninh, nhất là tại các trung tâm giáo dục quốc phòng cho phù hợp với từng đối tượng. Bảo đảm cơ sở vật chất, thao trường cho giáo dục quốc phòng và an ninh. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác bồi dưỡng quốc phòng và an ninh cho cán bộ các cấp, các ngành, các đoàn thể. Thường xuyên rút kinh nghiệm công tác giáo dục quốc phòng và an ninh theo chức năng, nhiệm vụ, kết quả thực tế và làm tốt công tác khen thưởng, kỷ luật trong giáo dục quốc phòng và an ninh.

Cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành và đoàn thể quần chúng ở các địa phương, cơ sở phải nhận thức rõ vị trí trọng yếu của công tác quân sự địa phương đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng để thực hiện tốt việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng và tích lũy tiềm lực quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Bổ sung hoàn chỉnh các kế hoạch và quyết tâm chiến đấu. Kết hợp thực hiện tốt các chính sách xã hội với chính sách gia đình dân quân tự vệ. Coi trọng xây dựng tiềm lực và nguồn bảo đảm để đáp ứng nhu cầu quốc phòng trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Nghiên cứu, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng cơ quan quân sự địa phương các cấp để làm tốt nhiệm vụ chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang địa phương trong xây dựng, hoạt động, chiến đấu và sản xuất; tham mưu cho cấp ủy, đoàn kết hiệp đồng với các ban, ngành, các đoàn thể và với các lực lượng khác trong việc thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quân sự địa phương về phẩm chất và năng lực, nhất là bản lĩnh và trình độ chính trị, quân sự, nghiệp vụ, pháp luật, quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng và kiến thức kinh tế, văn hóa, xã hội. Đi đôi với cử đi học tại các nhà trường, hết sức coi trọng việc tổ chức học tập tại chức và bồi dưỡng ngắn ngày về những mặt công tác cần thiết, nhất là đối với cán bộ ở các địa phương. Dựa vào nhân dân đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ Tổ quốc, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, các ngành nội chính, tư tưởng, văn hóa, đối ngoại trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc, đặc biệt là thế trận lòng dân làm nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện. Nắm chắc tình hình, chủ động phát hiện và xử lý kịp thời, hiệu quả mâu thuẫn nội bộ và âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, quyết không để chia rẽ đoàn kết dân tộc.

Với vai trò là cơ quan của Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về quốc phòng, trực tiếp thực hiện việc xây dựng, quản lý, chỉ huy dân quân tự vệ, Bộ Quốc phòng cần tiếp tục thực hiện tốt công tác tham mưu chiến lược cho Đảng, Nhà nước các chủ trương, chính sách, biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân; kết hợp kinh tế với quốc phòng; kết hợp tăng cường quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội... Tham mưu cho Đảng, Nhà nước và chủ trì, phối hợp với các bộ ngành địa phương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ hùng hậu, rộng khắp làm nòng cốt thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trên cơ sở kết hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, chủ trì, phối hợp với các bộ ngành địa phương và các tổ chức có liên quan để thực hiện quản lý nhà nước đối với dân quân tự vệ. Chỉ đạo và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch nhà nước, đề án, dự án, biện pháp xây dựng dân quân tự vệ của các cơ quan, tổ chức, địa phương. Xây dựng tổ chức, con người trong lực lượng dân quân tự vệ. Bảo đảm vũ khí trang bị của dân quân tự vệ. Hướng dẫn, kiểm tra việc xây dựng, hoạt động của dân quân tự vệ...

Thượng tướng ĐỖ BÁ TỴ,

Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương,

              Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

----------

(*) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.158