Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, những đồng tiền từ hậu phương đến với chiến trường được tổ chức bởi một guồng máy hoạt động rất tình vi, liên kết cả hậu phương và tiền tuyến, cả trong nước và nước ngoài, kết hợp với kỹ thuật quân sự, tình báo… rất phức tạp và linh hoạt. Nhân kỷ niệm 62 năm Ngày truyền thống ngành Tài chính quân đội (25-3-1946-25-3-2008), Tạp chí Lịch sử quân sự giới thiệu một số tư liệu về hoạt động chi viện tiền tệ cho chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ngay sau khi hoà bình lập lại, Ngân hàng Quốc gia đã bắt đầu lo chuyện tiền bạc cho miền Nam, trong đó chủ yếu là loại tiền do chính quyền Sài Gòn phát hành. Sở Quản lý ngoại hối (sau là Cục Ngoaị hối), được giao đảm nhiệm công tác này. Biện pháp đầu tiên mà Sở tiến hành là dùng ngân sách nhà nước để mua tiền Sài Gòn tại thị trường nước ngoài, chủ yếu là tại Hồng Công. Đồng thời, Sở chỉ đạo các đơn vị cho đào số tiền được chôn giấu từ trước khi các lực lượng lên đường ra Bắc tập kết, đem đổi sang tiền Sài Gòn. Hình thức chôn giấu trước đây thường là tổ chức những đám ma giả, đưa vũ khí, tiền bạc vào trong áo quan và đem đi chôn. Thời kỳ đầu, số tiền hàng năm lo cho miền Nam khoảng 1 triệu đô-la. Cùng với sự phát triển của cuộc kháng chiến, nhu cầu tiền trở nên cấp thiết và ngày càng tăng, nhất là khi mà tuyến vận tải chiến lược chưa phát triển, khả năng vận chuyển vật chất cho các chiến trường gặp nhiều khó khăn.
Quỹ ngoại tệ đặc biệt
Năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành”Chiến tranh cục bộ”, đồng chí Phạm Hùng đã đề xuất với Bộ Chính trị cho lập tại miền Bắc “Quỹ ngoaị tệ đặc biệt”, lấy từ các nguồn quốc tế viện trợ để chi viện trực tiếp cho miền Nam. Với các nước anh em lúc bấy giờ, ngoài đề nghị viện trợ bằng vật chất như vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng, ta còn đề nghị viện trợ bằng ngoaị tệ (chủ yếu là đô-la) để chi viện cho những vùng, miền mà ta chưa thể đưa hàng đến nơi được.
Các nước bạn (đặc biệt là Cu Ba); các phong trào cánh tả; các nhân sĩ tiến bộ trên thế giới tích cực ủng hộ ngoại tệ cho ta. Nhu cầu của các chiến trường lúc bấy giờ là tiền ngân hàng Sài Gòn và một số loaị tiền của các nước lân cận như đồng Bạt (Thái Lan), Riên (Cam-pu-chia), Kíp (Lào)… Vì vậy, ta phải tổ chức đổi đô-la ra các loại tiền mới trên. Địa bàn quan trọng đầu tiên để thực hiện nghiệp vụ này là Hồng Công với thể chế chính trị đặc biệt và một nền kinh tế mở, có nhiều mối quan hệ quốc tế, lại rất gần nước ta về mặt địa lý, là một thuận lợi rất lớn.
Ngoài Hồng Công, nguồn viện trợ bằng ngoại tệ từ các cá nhân và các nước Tây Âu thì “chuyển” ra đô-la Mỹ, rồi qua đường “giao thông ngoại giao” chuyển từ Pa-ri qua Mát-xcơ-va về Hà Nội. Từ Hồng Công và Hà Nội, ta chuyển tiền vào miền Nam qua hai hình thức: Chuyển khoản và chuyển bằng tiền mặt.
Năm 1965, khi đế quốc Mỹ tiến hành”Chiến tranh cục bộ”, đồng chí Phạm Hùng đã đề xuất với Bộ Chính trị cho lập tại miền Bắc “Quỹ ngoaị tệ đặc biệt”, lấy từ các nguồn quốc tế viện trợ để chi viện trực tiếp cho miền Nam. Với các nước anh em lúc bấy giờ, ngoài đề nghị viện trợ bằng vật chất như vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng, ta còn đề nghị viện trợ bằng ngoaị tệ (chủ yếu là đô-la)... |
Đổi tiền bằng tỷ giá “khuyến mại”
Chính quyền miền Nam Việt Nam cũng như chính quyền một số nước khác thường quy định giá trị bản tệ cao hơn giá trị thực tế so với đồng đô-la. Vào đầu những năm 60, 140 đồng tiền Sài Gòn quy đổi bằng 1 đô-la, trong khi tại thị trường chợ đen phải là 190 đồng. Người nước ngoài vào miền Nam cũng phải đổi ngoại tệ với tỷ giá 140/1. Họ rất bức xúc nhưng không dễ gì ra thị trường chợ đen để đổi theo tỷ giá 190/1 được, bởi hoạt động này bị cấm và nếu cảnh sát phát hiện, chúng sẽ tịch thu, thậm chí bỏ tù. Lợi dụng tình hình này, chúng ta đề ra một tỷ giá “khuyến mại” là: 160/1 để thu hút lượng tiền. Một cơ sở bí mật của ta được cài ngay trong một ngân hàng Sài Gòn là ông Lữ Minh Châu (mang mật danh là N2683), đã lấy tiền ngay tại ngân hàng này do những chủ doanh nghiệp lớn cung cấp. Theo thoả thuận với N2683, họ lấy tiền mặt từ ngân hàng để “sản xuất-kinh doanh”, nhưng thực tế là để cung cấp cho cách mạng. Ta có tiền ngân hàng Sài Gòn nhận ngay tại Sài gòn, trong khi họ lại được đổi đô-la theo tỷ giá “khuyến mại”. Phương pháp này có thuận lợi lớn là có thể chuyển nhanh một số tiền lớn chỉ trong một ngày thay cho hàng, lại vừa rất an toàn, kín đáo, không bị thiệt do tỷ giá mà còn sinh lợi nhờ hưởng lãi suất này tính trong 10 năm lên tới gần 25 triệu đô-la.
Tiền trong va-li, tiền đi…đường thuỷ
Tại Hồng Công, ngoài nghiệp vụ đổi tiền qua chuyển khoản theo kiểu đáo hối nói trên, chúng ta còn thực hiện đổi trực tiếp đô-la lấy tiền Sài Gòn. Số tiền thu được ở Hồng Công ta chuyển về cơ sở ở Quảng Châu, rồi về Hà Nội. Từ Hà Nội tiền được Đại đội 100 của Đoàn 559 chuyển vào các chiến trường theo sự phân phối của Bộ Quốc phòng. Đại đội 100 thành lập tháng 7-1970, với nhiệm vụ vận chuyển tiền cho chiến trường B2 (tiền cho T4, Khu 5, B3 do đơn vị khác đảm nhận). Đoàn xe com-măng-ca của C100 xuất phát từ đèo Mụ Giạ trên đất Quảng Bình mang theo những chiếc va-li bằng sắt dài khoảng 70cm, ngang chừng 30cm, cao 20cm, chạy tới ngã ba Lằng Khằng (một địa điểm trên vùng giải phóng Lào). Từ đây, theo Hiệp định đã được ký kết, Quân giải phóng Lào cho xe con chở tiền chạy trên đất Lào vượt qua Xiêng Phạn, Mường Phìn, La Hay rồi dừng lại tại Bạc giao cho đoàn 470-Bộ tư lệnh đoàn 559. Từ Bạc, những hòm tiền được xuôi theo đường thuỷ trên ca-nô hoặc thuyền để đổ bộ lên ngã ba Phi Hà (còn được gọi là ngã ba Đông Dương). Tuỳ theo từng thời điểm, căn cứ vào tình hình địch, nhu cầu của chiến trường, phương tiện vận chuyển…Bộ tư lệnh đoàn 470 quyết định chuyển những kiện đô-la ngược sang đất Cam-pu-chia để bàn giao cho các cơ sở của ta tại tỉnh Stung-treng hoặc dùng xe con chạy thẳng tới Bù Gia Mập-nơi đặt trạm giao liên trên đường tiến vào Sài Gòn. Riêng trong năm 1970, C100 đã vận chuyển được 1.875 hòm tiền an toàn.
Tiền tệ chi viện cho chiến trường miền Nam ngoài đô-la, tiền ngân hàng Sài Gòn còn có một khối lượng lớn tiền bạc Đông Dương-bạc hoa xoè. Thời kỳ nhận bạc hoa xoè kéo dài từ 1961 đến 1964, tháng nào cũng có chuyến nhận tiền, mỗi lần nhận khoảng 10 hòm, mỗi hòm nặng gần 20kg, ước có hơn 700 đồng bạc hoa xoè. Số tiền này, quân khu 5 giao hết cho Khu uỷ để cấp phát thẳng cho đơn vị.
Ngoài những con đường chi viện tiền tệ nói trên, chúng ta còn chuyển tiền qua Phnôm Pênh, từ đó bí mật vận chuyển về Sài Gòn, hoặc cấp ngay cho đoàn hậu cần K20 của đồng chí Đức Phương để thu mua hàng hoá tại vùng 3 biên giới. Ngoài ra, tiền còn được theo những con tàu không số đến với các chiến trường cực Nam.
Đổi đô-la ra tiền Sài Gòn để chi tiêu là một hoạt động đầy khó khăn, gian khổ. Gánh vác phần lớn công việc này là những chiến sĩ tình báo. Hình thức đổi cũng rất phong phú, đa dạng. Một trong những hình thức rất hiệu quả là thông qua các tiệm buôn bán vàng. Các tiệm buôn vàng này đều có buôn đô-la. Để đề phòng bị lộ, cứ mỗi ngày cơ sở của ta đổi cho 4 tiệm vàng, mỗi tiệm 500 đô-la. Ngày hôm sau lại qua 4 tiệm vàng khác. Khắp Sài gòn, Chợ Lớn, Gia Định có hàng trăm tiệm vàng, nên bình quân phải 10 ngày sau mới quay lại tiệm vàng cũ nên địch không phát hiện được, còn ta lại đổi được số lượng lớn tiền mặt.
Những người làm công tác tài chính ở miền Đông Nam Bộ còn nhớ mãi tấm gương hy sinh của hai nữ chiến sĩ làm công tác đổi và vận chuyển tiền. Cuối năm 1967, sau khi đổi được số tiền gần 3 triệu đồng, họ chưa kịp rút về căn cứ để giao tiền thì đụng phải trận càn của địch. Các chị rút xuống một căn hầm bí mật. Không may có kẻ phản bội chỉ điểm, quân địch vây quanh hầm, gọi hàng. Không chịu khuất phục, họ cùng nhau xé vụn số tiền vừa đổi được, sau đó bật nắp hầm và tung lựu đạn lên. Lựu đạn không nổ, quân địch ném trả lựu đạn xuống hầm. Các chị đã hy sinh anh dũng bên những đồng tiền đã bị xé nát. |
Tiền gùi trên vai
Tại Quân khu 5, việc tiếp nhận đô-la, tiền Sài Gòn lúc đầu do Cục Hành lang thực hiện. Cục Hành lang là tổ chức trực thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 5 (sau đó nhập lại với Cục Hậu cần thành Cục Hậu cần – hành lang), có nhiệm vụ tiếp nhận hàng hoá chi viện của ta (trong đó có đô-la và bạc hoa xoè) từ miền Bắc qua Đoàn 70 (sau này là Đoàn 559) chuyển vào và vận chuyển về giao cho Khu uỷ Khu 5. Khu uỷ tổ chức đưa vào ngân hàng Đà Nẵng đổi ra tiền Sài Gòn. Sau đó, thông báo sẽ cấp bao nhiêu tiền cho Quân khu tại cửa khẩu, cơ quan tài vụ phải đưa lực lượng xuống cửa khẩu, tận vùng giáp ranh để nhận. đây là một công việc khó khăn, nguy hiểm nên lực lượng đi nhận tiền được tuyển chọn rất kỹ lưỡng, phải là những người dũng cảm, biết rõ địa hình, địa vật, thông thạo đường sá. Có lần đoàn nhận tiền với 5 người gùi trên đường về bị địch phục kích, đã chiến đấu rất dũng cảm chở tiền về đến nơi và giao nộp đầy đủ. Việc nhận tiền từ Khu uỷ kéo dài cho tới khi Khu uỷ giải tán.
Tiền trong thùng dầu
Có tiền Sài Gòn rồi, việc vận chuyển cho các chiến trường cũng là một công việc không dễ. Nhóm cán bộ tình báo ở Sài Gòn, do đồng chí Trần Quốc Trung (tức Mười Tiến) chỉ huy, có nhiệm vụ tổ chức vận chuyển tiền cho nhiều chiến trường. Với quân khu 8, 9, cán bộ ta lợi dụng các thuyền chở gạo từ miền Tây lên Sài Gòn bán, khi về phải mang vỏ bao không về, bỏ tiền vào các bao không này để che mắt quân địch; hoặc giao cho các chủ ghe “hai đáy” của ta vận chuyển về địa bàn Quân khu 9. Với Quân khu 5, nhóm tình báo thuê tàu biển đổ tiền lên một vị trí đã thống nhất. Tại Quân khu 6, tiền được bỏ vào các vỏ thùng dầu hoả, buộc hớ hênh trên ô tô, khiến kẻ địch không ngờ, nên vận chuyển được rất nhiều tiền. Việc vận chuyển tiền cho các Quân khu 5,6 được tiến hành theo cách này cho đến khi Tuyến vận tải 559 trực tiếp chuyển được các hòm tiền cho hai quân khu này.
Ngoài nguồn tiền do nhóm tình báo ở Sài Gòn cung cấp, các quân khu cũng tự thực hiện việc đổi từ đô-la ra tiền Sài Gòn. Quân khu 9 tổ chức nhiều đường dây đổi tiền, trong đó có đường dây của đồng chí Trần Văn Ba (tức Ba Xê), một cán bộ tài chính giàu kinh nghiệm. Ba Xê đóng giả làm tư sản, có ô tô riêng, ăn mặc sang trọng, thường xuyên lên Sài gòn, quan hệ với các nhà tư sản để đổi tiền. Cho đến khi giải phóng năm 1975, đồng chí đã đổi được 1,5 triệu đô-la. tiền đổi được, Quân khu 9 giao cho đội vận tải của phòng Tài chính vận chuyển bằng xuồng, ghe qua các kênh rạch rất khó khăn, gian khổ để đưa xuống các đơn vị.
Quân khu 7 cũng tổ chức những đơn vị chuyên làm nhiệm vụ đổi tiến, còn việc vận chuyển tiền chủ yếu do đội vận tải bằng xe Honda 90 thực hiện. Lực lượng này đông tới hàng trăm người. Những chiếc xe Honda 90 ngang dọc trong những cánh rừng cao su, rừng khộp vận chuyển tiền cho các đơn vị, tạo nên nét lãng mạn riêng của những chiến sĩ tài chính trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.
Những người làm công tác tài chính ở miền Đông Nam Bộ còn nhớ mãi tấm gương hy sinh của hai nữ chiến sĩ làm công tác đổi và vận chuyển tiền. Cuối năm 1967, sau khi đổi được số tiền gần 3 triệu đồng, họ chưa kịp rút về căn cứ để giao tiền thì đụng phải trận càn của địch. Các chị rút xuống một căn hầm bí mật. Không may có kẻ phản bội chỉ điểm, quân địch vây quanh hầm, gọi hàng. Không chịu khuất phục, họ cùng nhau xé vụn số tiền vừa đổi được, sau đó bật nắp hầm và tung lựu đạn lên. Lựu đạn không nổ, quân địch ném trả lựu đạn xuống hầm. Các chị đã hy sinh anh dũng bên những đồng tiền đã bị xé nát.
Hành trình của những đồng tiền, từ hậu phương đến với chiến trường, được tổ chức bởi một guồng máy hoạt động rất tinh vi, liên kết cả hậu phương và tiền tuyến, cả trong nước và nước ngoài, kết hợp với những kỹ thuật quân sự, tình báo… rất phức tạp. linh hoạt. hàng trăm triệu đô-la đã vượt qua những nẻo đường này chi viện cho các chiến trường, mang đến sức mạnh vật chất, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
Xuân Trung