Cuối tháng 11-1946, quân Pháp tiến hành hàng loạt vụ khiêu khích, tấn công các cơ quan chính quyền của ta. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Hà Nội do Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo, nhằm tác chiến bao vây, giam chân địch. Thành phố được chia thành các liên khu. Liên khu 1 áp sát đại bản doanh bộ chỉ huy Pháp ở trung tâm thành phố. Liên khu 2 và liên khu 3 thiết lập trận địa đường phố bịt các cửa ô. Cả ba liên khu phối hợp tác chiến hình thành thế trận trong đánh ra ngoài đánh vào, tiêu diệt đồn bốt địch, đặt chướng ngại vật, lập chiến lũy trên các đường giao thông, không cho địch tự do đi lại, chặn đứng nguồn tiếp tế của chúng.
 |
Chiến sĩ cảm tử Hà Nội ôm bom ba càng diệt xe tăng địch. Ảnh tư liệu
|
Mỗi khu phố tổ chức một trung đội đến một đại đội du kích tự vệ chiến đấu; được nhân dân ủng hộ, tự sắm vũ khí, phần lớn là giáo mác, dao găm, côn kiếm... Liên khu cấp cho một số lựu đạn và các chai xăng “crêp” (xăng trộn crêp thành dung dịch đặc sệt, làm vũ khí ném kèm theo lựu đạn, làm bốc lửa thiêu cháy địch). Mặt trận còn quyết định thực hiện kế sách “điều động lực lượng” uy hiếp tinh thần giặc. Hàng nghìn dân quân tự vệ ở những vùng quê xung quanh rầm rập kéo vào thành phố, tăng cường lực lượng cho các chiến lũy; đến đêm bí mật rút, hôm sau lại rầm rập tiến quân vào, khiến quân địch lo sợ, phải ra sức phòng vệ.
Tướng Morlière gửi tối hậu thư đòi ta đúng ngày 20-12-1946 phải nộp vũ khí, giao các vị trí cho quân Pháp. Vậy là địch lộ rõ dã tâm xâm lược, phủ định Tạm ước 14-9. Bộ Tổng chỉ huy quyết định chủ động nổ súng trước. Đúng 20 giờ 3 phút ngày 19-12, pháo của ta từ các trận địa nã dồn dập vào trung tâm thành Hà Nội; các đơn vị quân đội, dân quân tự vệ toàn mặt trận nhất tề nổ súng tấn công địch.
Giặc Pháp hoàn toàn bị bất ngờ, bởi chúng cứ đinh ninh quân ta chỉ có thể nằm chờ lực lượng hùng hậu của đại quân Pháp tấn công và chịu chết, quá lắm cũng chỉ bắn lọp bọp rồi bỏ chạy. Vậy mà…Từ quan đến lính Pháp đều bối rối; hơn thế, đúng lúc đạn rơi, lửa cháy thì trong thành chẳng còn chút ánh sáng điện nào; súng pháo của giặc phải câm lặng suốt đêm. Những ngày tiếp sau, địch trong thành bị vây hãm khốn khổ vì bị ta cắt hết điện, nước; nơm nớp tránh pháo của ta từ trận địa Láng và Xuân Canh câu vào. Chúng phải dùng xe tăng, pháo tự hành phá vây. Súng trường, lựu đạn của ta chỉ diệt được bộ binh bám theo, còn xe tăng vẫn cứ lùi lũi tiến, yểm trợ cho quân lê dương lùng sục.
Bộ đội ở các chốt tình nguyện xung phong ôm bom ba càng lao vào xe thiết giáp địch. Chính trị ủy viên Trần Độ nhất trí với đề xuất lập các đội “quyết tử quân”. Công binh xưởng ở Hà Đông dốc sức sản xuất vũ khí đánh tăng: Bom ba càng, chai xăng crêp, lựu đạn công phá mạnh... Phòng Tham mưu tổ chức thêm trận địa pháo Thủ Khối và Xuân Tảo, tăng cường hỏa lực chế áp địch.
Các đơn vị vũ trang Liên khu 1 xây dựng khu “trụ bám” nội đô. Ở phía bắc Hồ Gươm, các đầu phố đều bị bịt kín. Những con hào cắt ngang mặt đường, sâu lút đầu, rộng bốn mét, phía trong đắp lũy cao. Từ các phía bờ sông, cầu Dumer (Long Biên), bốt Hàng Đậu, cửa hàng Gô-đa (nay là siêu thị Tràng Tiền Plaza) đi vào khu phố cổ cũng bị bịt kín bằng chiến lũy, phía trong là hầm hào giao thông, có tổ xung kích trực chiến suốt ngày đêm. Bên trong “khu trụ bám” là những đường phố ngang dọc. Tất cả các ngã ba ngã tư đều “khóa chặt” bằng những chiếc “then cài”, các đường phố biến thành “hào lộ thiên” chiến đấu; kẻ địch lọt vào, khó mà thoát khỏi. Quân dân trong “khu trụ bám” đào những giao thông hào nối các phố Hàng Thiếc, Hàng Nón, Hàng Giấy, Hàng Khoai, Chợ Gạo, Hàng Chĩnh… xuyên qua chợ Đồng Xuân, vòng qua phố Mã Mây, xuống tận cột đồng hồ, xuyên tới bãi Phúc Tân, Phúc Xá... Trong khu vực này toàn là nhà gạch, giáp tường nhau. Các gia đình cho chiến sĩ đục tường thông sang, tạo thành “đường hầm trong phố” và chỉ các chiến binh Liên khu 1 biết vì nó ngoắt ngoéo khác thường.
Ngày 22-12-1946, quân Pháp cho xe tăng đột phá vào phố Hàng Mành. Chúng dùng pháo bắn nát căn nhà ở đầu phố rồi thúc quân lê dương xông lên đặt mìn phá lũy. Nhưng khi chúng vượt hào chui vào, các ổ chiến đấu quăng ra những chai “xăng crêp” bốc lửa phừng phực, chiếc xe tăng bốc cháy dữ dội. Đám Tây lê dương bám theo tan xác vì bãi mìn, lựu đạn. Chúng tức tối, lại từ bốt Hàng Đậu xông vào khu phố chợ Đồng Xuân, Hàng Đường…Những chiếc tăng 18 tấn mỗi lần húc vào trận địa phố cổ, lại một lần mắc kẹt, tiến, lui không nổi, nằm trơ ra chịu hàng chục trái bom bà càng, chai “xăng crêp”. Đám lính theo chết dồn cục, khiêng nhau tháo chạy, lại gặp ngay những mũi mác nhọn hoắt. Chưa ở đâu, chúng gặp trận địa ngoắt ngoéo, ghê sợ như thế.
Ngày 6-1-1947, tướng Morlière, tổng chỉ huy cuộc tiến công Hà Nội bị triệu hồi. Viên tướng khác đến thay cũng không thực hiện nổi ý đồ “bóp chết” lực lượng kháng chiến Hà Nội. Không những thế, ngày 7-1, Bộ Tổng chỉ huy còn phê chuẩn đề nghị của mặt trận Hà Nội và Ủy ban kháng chiến Liên khu 1 thành lập Trung đoàn Thủ Đô. Trong 60 ngày đêm (từ 19-12-1946 đến 18-2-1947), quân và dân Hà Nội đã đánh hơn 200 trận, loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 tên địch, phá hủy hơn 100 xe các loại, bắn chìm một ca-nô, bắn rơi 5 máy bay, thu nhiều vũ khí; đặc biệt đã vây hãm quân địch vượt thời gian mà Bác Hồ và Bộ Tổng chỉ huy đề ra. Chiến lũy Thủ đô thực sự tiêu biểu cho khí phách anh hùng của quân và dân ta bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ.
Nguyễn Việt Phương