Kỳ 7: Anh hùng Trần Suyền - điểm tựa cho những con tàu

QĐND - Trần Suyền không phải là chính trị viên Tàu không số, nhưng ông đã trở thành “chính trị viên danh dự”, “điểm tựa tinh thần” cho tất cả những thủy thủ từng cập bến Vũng Rô. Đại tá Hồ Đắc Thạnh, nguyên Thuyền trưởng Tàu không số từng 4 lần cập bến Vũng Rô tâm sự: “Mỗi lần về thăm lại Vũng Rô, chúng tôi vô cùng xúc động nhớ đến những đồng chí đã anh dũng hy sinh, bao gia đình đã mất người thân, mất nhà cửa, ghe thuyền, ngư cụ… để chúng tôi được an toàn. Đặc biệt, chúng tôi nhớ đồng chí Trần Suyền - Anh hùng LLVT nhân dân, người đã bỏ nhiều tâm sức chăm lo xây dựng, tổ chức đón tiếp Tàu không số vào bến Vũng Rô” .

Thôi chức Bí thư Tỉnh ủy để chuyên lo đón Tàu không số

Đồng chí Trần Suyền là người từng giữ cương vị Bí thư Tỉnh ủy lâu năm nhất trong lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên. Cuộc đời cách mạng tận tụy, đầy gian khổ, hy sinh và liêm khiết của ông đã được lịch sử cách mạng tỉnh Phú Yên ghi nhận như một trong những nhà lãnh đạo ưu tú nhất ở địa phương.

Đồng chí Trần Suyền. Ảnh tư liệu

Sinh năm 1922, tại Phú Yên, cha mất sớm, mẹ già yếu không đủ sức nuôi Trần Suyền tiếp tục học hành. Vợ chồng người chú ruột, thấy Trần Suyền thông minh và hiếu học nên nhận anh về làm con, tiếp tục lo cho anh học trung học ở Huế và ra Hà Nội học Trường Đại học Canh nông (Trường Đại học Nông nghiệp bây giờ). Tổng khởi nghĩa Tháng Tám-1945 bùng nổ, Trần Suyền về quê tham gia khởi nghĩa. Ngày 28-8-1945, anh được cử làm Chủ tịch UBND cách mạng lâm thời phủ Tuy Hòa. 

Tháng 7-1954, thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, đa số cán bộ chủ chốt của Phú Yên đều tập kết ra Bắc, nhưng Trần Suyền tình nguyện ở lại Phú Yên để hoạt động bí mật với bí danh Sáu Râu. Anh Sáu Râu có tác phong cần cù, chịu khó suy nghĩ, quyết đoán; cái gì khó mấy, gian khổ mấy anh cũng kiên trì làm, hoặc giúp đỡ, tạo điều kiện cho cấp dưới làm, trên cơ sở đó đúc kết kinh nghiệm thực tế để chỉ đạo. Trong thời gian Mỹ-Diệm khủng bố trắng, lê máy chém đi khắp miền Nam khiến phong trào cách mạng đi xuống, nhiều cán bộ nằm vùng bị bắt, nhiều tổ chức đảng bị vỡ. Đồng chí Sáu Râu đã đi hết huyện này đến huyện khác để chắp nối phong trào cách mạng ở tỉnh Phú Yên.

 Năm 1961, với cương vị Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, đồng chí Trần Suyền đã tổ chức cuộc chiến đấu giải thoát Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đang bị Mỹ-Diệm lưu đày ở Phú Yên, đưa luật sư ra vùng giải phóng nhận nhiệm vụ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, thành lập từ ngày 20-12-1960. Năm 1963, phong trào cách mạng Phú Yên phát triển mạnh mẽ, LLVT ngày càng đông nhưng vũ khí rất thiếu thốn. Đúng lúc đó, Tỉnh ủy Phú Yên nhận được chỉ thị của Trung ương, giao nhiệm vụ chuẩn bị bến bãi để tiếp nhận vũ khí được chi viện từ miền Bắc vào thông qua đường biển. Việc chọn bến bãi để tiếp nhận vũ khí là nhiệm vụ tối mật, đặc biệt quan trọng và vô cùng khó khăn. Cấp trên tin tưởng cử đồng chí Sáu Râu chuyên trách công tác này và giao nhiệm vụ Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên cho đồng chí khác. 

Dò dẫm mở bến

Ý thức rất rõ trách nhiệm của mình khi được Đảng giao nhiệm vụ tổ chức bến đón Tàu không số, đồng chí Trần Suyền đã lập tức cùng các đơn vị đi trinh sát, tìm nơi đặt bến. Qua phân tích nhiều địa chỉ, Vũng Rô nổi lên là nơi có núi non hiểm trở bao bọc, có nhiều hang, gộp đá, đường sá độc đạo thuận tiện cho việc hoạt động tác chiến của các LLVT. Vũng Rô còn có những điều kiện rất thuận lợi cho việc cơ động quân và vận chuyển vũ khí về vùng căn cứ, vùng giải phóng… thuận lợi cho việc sơ tán lực lượng, tránh được hỏa lực địch, cất giấu lương thực, vũ khí ở các hang, gộp đá. Tuy nhiên, địa hình Vũng Rô trống trải, rất khó cho tàu ta đậu lại chờ thời cơ. Nó khác với các kênh rạch ở Nam Bộ, khi tàu vào được có rừng đước, rừng tràm che chở, thời gian nằm lại 5 – 7 ngày không lo địch phát hiện.

Qua đánh giá các yếu tố về địa hình, vị trí địa lý, tình hình địch, ta và nhân dân địa phương, đồng chí Trần Suyền đã chọn bến Vũng Rô để đón tàu và bắt tay làm hàng trăm công việc liên quan đến tổ chức bến, hành lang và lực lượng bảo vệ để đón tàu vào, tiếp nhận cất giấu, vận chuyển vũ khí, hàng hóa về căn cứ. Mọi việc đều mới mẻ và rất khó khăn. Điều quan trọng nhất là lực lượng ở bến rất đông, hàng nghìn con người với nhiều thành phần thì việc giữ bí mật của bến là điều tối quan trọng. Nhận thức rõ yêu cầu này, đồng chí Trần Suyền chỉ thị: “Việc ai làm, người ấy biết, làm đến đâu biết đến đó. Không được tìm hiểu những việc không phải nhiệm vụ của mình. Các đồng chí bí thư chi bộ phải trực tiếp tổ chức và nắm lực lượng. Mỗi xã phải chuẩn bị một đội thanh niên xung phong loại A từ 50 đến 100 người cả nam lẫn nữ. Những người này có ý thức chính trị tốt, sức khỏe tốt, tuổi từ 35 trở xuống. Trước hết, phải chọn trong đảng viên, đoàn viên rồi đến du kích vững vàng. Ngoài ra còn chuẩn bị các đội dân công mỗi xã từ 100 đến 200 người. Các chi bộ chuẩn bị danh sách, cần đến đâu huy động đến đó. Ngoài ra, phải tổ chức lực lượng tập trung mỗi nơi rút một trung đội du kích để thành lập đơn vị bảo vệ bến”. 

Tối ngày 28-11-1964, chuyến tàu không số đầu tiên cập bến Vũng Rô, mang theo 70 tấn vũ khí và liên tiếp sau đó chuyển 3 chuyến vũ khí, hàng hóa, thuốc men vào bến. Số vũ khí này được chuyển về phía sau, cấp phát cho các đơn vị bộ đội chiến đấu ở các tỉnh: Phú Yên, Khánh Hòa, Đắc Lắc. Đến chuyến tàu thứ tư thì bị lộ. Địch huy động toàn lực cả thủy, lục, không quân hòng cướp tàu. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trần Suyền, bộ đội, dân quân du kích bảo vệ bến bãi đánh trả quyết liệt, đưa toàn bộ thủy thủ lên bờ, dùng thuốc nổ có sẵn trong tàu đánh hỏng và chìm tàu tại chỗ, phá hủy số vũ khí còn lại trên bến và rút lui về phía sau.

Những chuyến hàng cập bến đều in đậm dấu ấn và công lao của đồng chí Trần Suyền, người lãnh đạo, xây dựng hệ thống bến đón liên hoàn đưa vũ khí đến tận tay các đơn vị vũ trang, đồng thời  chăm sóc chu đáo các thủy thủ Tàu không số để họ yên tâm và có thêm sức mạnh cho những chuyến đi vượt sóng gió, hiểm nguy. Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh kể rằng, điều ông nhớ nhất trong những lần cập bến Vũng Rô chính là lần chuyển hàng cho quân ta tổ chức Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Tất cả các thủy thủ trên tàu của ông đều cảm động rơi nước mắt. Trong đêm Giao thừa đầy khói lửa của Tết Mậu Thân 1968, vậy mà các thủy thủ vẫn được bến tổ chức ăn Tết ấm tình quân dân và nghe Bác Hồ chúc Tết qua làn sóng đài phát thanh. Sự chăm sóc ân cần của “chính trị viên” Trần Suyền khiến các thủy thủ như quên hết gian lao, tiếp thêm sinh lực cho chuyến đi tiếp theo. 

Luôn nhận phần thiệt về mình 

Đồng chí Nguyễn Duy Luân, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên, người có nhiều năm sát cánh chiến đấu bên cạnh đồng chí Trần Suyền đã nhận xét: “Có thể nói, toàn bộ những thành tích, những chiến công xuất sắc của tỉnh Phú Yên đều gắn liền với công sức, trí tuệ, sự chỉ đạo kiên trì, gian khổ của anh Sáu Râu. Nhưng về phần đời tư và gia đình, anh Sáu Râu cũng quá nhiều gian nan, nhiều nỗi đắng cay, khổ cực”.

Năm 1964, được Khu ủy đồng ý cho phép anh đưa vợ là chị Nguyễn Thị Phú và 2 con nhỏ ra vùng giải phóng. Không bao lâu sau, năm 1968, trong một trận càn, địch đã dùng bom đạn đánh trúng vào cơ quan, thế là... . Anh ân hận lắm, vì suốt bao năm chỉ mải lao vào công tác, chỉ đạo đối phó với địch, không có thời gian chăm sóc vợ con, dù chỉ chút xíu gọi là. Anh Sáu day dứt nhưng đành nuốt nỗi đau, biến đau thương thành sức mạnh để công tác và chiến đấu.

Trong sinh hoạt hằng ngày, anh Sáu Râu luôn nhường nhịn đồng đội từ những miếng ăn nhỏ nhất. Anh cũng nổi tiếng bởi sự tiết kiệm. Chẳng hạn, anh em đi bắt được nhiều cua, anh tìm cách thả bớt cua cái ra suối với lý do: “Để nó đẻ, lần sau còn có cái bắt”. Anh em làm thịt trâu cải thiện, bỏ bộ lòng, anh đi lấy lại, làm sạch, sấy khô, đến đợt địch vây ráp thì cả cơ quan có cái ăn. Những lần đi công tác qua bãi cỏ tranh sắc cạnh nhưng anh vẫn cởi quần dài cất đi, mặc cho cỏ cứa nát ống chân với lý luận: “Da bị cứa thì sẽ lành, quần rách thì tổ chức không lo được cái khác”.

Sau một thời gian dài sống độc thân, anh đi bước nữa với chị Nguyễn Thị Thuận, cán bộ công tác tại Thị ủy Tuy Hòa. Chị Thuận sinh cho anh được hai cháu, một trai, một gái. Trong một đợt càn quét của địch vào căn cứ, chị hy sinh, để lại 2 con thơ, cháu trai nhỏ là Trần Hữu Thế mới sinh chưa đầy một tuổi. Được tin vợ mất, anh Sáu trở về đón con trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt và từ đó anh ở vậy nuôi con trưởng thành.

Sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, đồng chí Trần Suyền công tác thêm một thời gian rồi nghỉ hưu. Tuy tuổi cao sức yếu nhưng ông vẫn say sưa công tác, say sưa nghiên cứu về phát triển kinh tế, về cơ chế mới để giúp lớp cán bộ sau xây dựng phát triển tỉnh nhà. Ông thường đi lại những nơi căn cứ đã từng lăn lộn trong chiến tranh, để khai phá, trồng trọt, tìm nguồn nước làm thủy lợi, thủy điện. Năm 2007, ông được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Ông sống mãi trong lòng nhân dân Phú Yên và mãi mãi là “điểm tựa tinh thần vững chắc” của các thủy thủ Tàu không số đã từng cập bến Vũng Rô.

--------------

 Kỳ 1: Anh hùng Bông Văn Dĩa - cá kình Biển Đông

Kỳ 2: Bản lĩnh anh hùng Đặng Văn Thanh

Kỳ 3: Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu - sự “trở về” kỳ diệu

Kỳ 4: Người cầm ngọn cờ chuẩn của Tàu 56

Kỳ 5: Người kể chuyện đường mòn trên biển

Kỳ 6: Hồ Đức Thắng-người anh hùng thầm lặng

 

Hải Dũng – Nguyễn Hương