Kỳ 2: “Pháo tự hành” đặt trên … lưng voi
Từ súng bắn đá và đội lính bắn đá của thời Lý, pháo binh của cha ông ta đã phát triển vượt bậc trong thời Trần. Đến triều đại của Hồ Qúy Ly, có một loại đại bác mới ra đời, được đánh giá là hơn hẳn các loại đại bác đương thời. Và trong triều đại Tây Sơn, pháo binh của dân tộc bắt đầu có sự phát triển nhảy vọt về nhiều mặt…
Súng thần cơ của Hồ Nguyên Trừng
 |
Ảnh minh họa
|
Sau 3 lần chiến thắng oanh liệt quân Mông Nguyên, vua tôi triều Trần kế tiếp đã quên lời di chúc vàng ngọc của Đại nguyên soái Trần Hưng Đạo, ấy là: “Phải khoan sức dân để làm cái kế sâu rễ bền gốc”, và lời nhắn nhủ của thượng tướng Trần Quang Khải: “…thái bình nên gắng sức. Non nước ấy ngàn thu” nên để mất lòng dân, suy yếu nghiêm trọng, dẫn đến việc cướp ngôi vua của Hồ Qúy Ly.
Đường lối kháng chiến chống xâm lược của nhà Hồ không dựa vào sức mạnh của toàn dân như các triều đại trước, mà chỉ dựa vào lực lượng quân đội thường trực với hàng trăm vạn người và việc cải tạo vũ khí, xây đắp thành quách, chiến tuyến…rất có thể từ đường lối chỉ đạo đó mà Hồ Nguyên Trừng- con cả của Hồ Qúy Ly- một kỹ sư quốc phòng giỏi lúc đó đã dành nhiều thời gian, trí tuệ vào việc nghiên cứu, chế tạo vũ khí. Trong số vũ khí ấy, nổi tiếng là súng thần cơ. Về kỹ thuật, Thần cơ hơn hẳn các loại đại bác đương thời, kể cả hỏa pháo của nhà Minh. Súng thần cơ có nhiều loại. Loại nhỏ dùng cho bộ binh bắn xa chừng 700 mét. Về mặt cấu tạo, Thần cơ có đầy đủ bộ phận cơ bản của súng thần công ở những thế kỷ sau này. Nòng súng một ống đúc bằng sắt hoặc bằng đồng, phía đuôi súng được đúc kín có bộ phận ngòi cháy ở chỗ nhồi thuốc nổ. Đạn pháo là mũi tên bằng sắt lớn. Khi bắn người ta nhồi thuốc súng vào phía đáy và đặt mũi tên vào giữa và nhồi thêm nhiều đạn ghém bằng sắt và chì.
Tuy là nhà chính trị, quân sự biết đề ra những biện pháp cải cách trên lĩnh vực kinh tế, song Hồ Qúy Ly lại có nhiều việc làm đi ngược lòng dân, nên không được nhân dân ủng hộ, vì thế mà cơ nghiệp đế vương của cha con Hồ Qúy Ly đã nhanh chóng sụp đổ tan tành.
Theo sử cũ, Hồ Nguyên Trừng bị giặc nhà Minh bắt về, cưỡng ép phải chế tạo ra nhiều loại súng đại bác để chúng thành lập nhiều thần cơ doanh, phục vụ mưu đồ xâm lược các dân tộc khác. Vậy là sau nỏ liên châu, đây là lần thứ hai, một thành tựu quân sự của ta bị kẻ thù tước đoạt.
“Pháo tự hành” đặt trên…lưng voi
Phong trào Tây Sơn (1771-1802) đã đánh dấu sự phát triển nhảy vọt của pháo binh Việt Nam. Bằng thiên tài quân sự của mình, Nguyễn Huệ đã đưa quân đội nói chung và pháo binh Tây Sơn nói riêng đến trình độ cận đại, vượt qua bọn xâm lược Xiêm, Thanh, không kém pháo binh quân đội các nước châu Âu lúc bấy giờ.
Chỉ tính riêng số lượng đại bác quân đội Tây Sơn trang bị cho thủy quân, lục quân lúc cao nhất phải đến ngàn khẩu. Phần do lấy được của quân Trịnh, Nguyễn, phần do tự chế tạo, sản xuất phù hợp với tư tưởng tiến quân mãnh liệt, thần tốc, cách đánh công thành, diệt viện, cơ động cao khắp chiến trường Nam- Bắc.
Lúc này, pháo binh đã được Tây Sơn nâng lên thành binh chủng hỏa lực, chiến đấu hiệp đồng quy mô nhỏ, vừa và lớn. Trong lục quân có pháo nặng phòng ngự giữ thành, có pháo tiến công cỡ lớn chi viện từ xa chở bằng tàu thuyền đến vị trí tập kết rồi cho voi kéo vào trận địa, có loại nhẹ đặt trên lưng voi, làm “pháo tự hành” trong đội hình tiến công của bộ binh và tượng binh.
Những khẩu pháo tự hành nói trên được chốt chặt trên một cái bệ đặt trên lưng voi. Khung bệ hình tò vò khum khum lựa theo chiều lưng voi xuống hai bên sườn, có hai càng áp sát vào hai bên sườn con vật. Lót dưới khung bệ gỗ là một cái đệm rất dày và êm để khỏi xây xát da lưng voi. Tất cả đều được ghìm chặt bằng những dây đai rộng bản bằng da trâu. Ba dây luồn dưới bụng, một dây dưới đuôi, một dây vòng qua trước ức voi. Vị trí chiến đấu của các pháo thủ là trên tấm ván đóng cứng vào đuôi càng của khung bệ gỗ hai bên sườn voi. Pháo thủ đứng theo hàng dọc, 3 người ở bên trái, 2 người ở bên phải. Khi có lệnh “nhồi thuốc”, ngay tức thì, pháo thủ đứng đầu hàng bên trái dùng một tay xoay nòng pháo về phía mình, tay kia nhận gói thuốc từ pháo thủ thứ 2 đứng sát sau, nhồi thuốc vào miệng nòng, dùng gậy dài vừa phải ấn gói thuốc vào tận đuôi nòng. Làm xong đẩy nòng về vị trí cũ. Tiếp đến là khẩu lệnh “nhồi đạn”, pháo thủ đứng trên cùng bên phải một tay xoay miệng nòng pháo về phía mình, tay kia tiếp nhận viên trái phá của người pháo thủ chuyền đạn đứng sau và làm động tác nạp viên đạn vào miệng nòng. Làm xong xoay nòng thẳng hướng cũ. Như vậy chỉ còn ngắm rồi khai hỏa. Tức thì người pháo đội trưởng đứng thứ 3 bên trái nhảy lên mông voi để ngắm bắn từ phía đuôi, xê dịch đầu nòng pháo vào đúng mục tiêu đã định. Ngắm xong, pháo đội trưởng nhanh chóng tụt xuống thấp, cùng lúc pháo thủ phụ trách nhồi thuốc chốt cứng nòng pháo vào khung bệ. Khi có lệnh “phát hỏa”, người pháo thủ chuyền đạn ở bên phải liền dí bùi nhùi rơm châm vào ngòi thuốc phóng thò ra ở gần đuôi nòng. Con voi chiến tinh khôn đã được huấn luyện thành thục, nghe thấy lệnh phát hỏa liền cong vòi giữ chặt dây đai vòng trước ức nó, ghìm chắc không cho pháo nhảy lên quá mức khi thuốc cháy đẩy viên đạn bay ra khỏi nòng pháo. Như vậy có thể thấy, pháo binh Tây Sơn không chỉ có kỷ luật cao, hiệp đồng chặt chẽ mà trình độ kỹ, chiến thuật đã đạt ở trình độ khá cao.
Những trận đánh tiêu biểu của pháo binh Tây Sơn có thể kể đến như trận đánh thành phố Hiến, thủ phủ trấn Sơn Nam thượng, nơi quân Trịnh tập trung rất mạnh. Trong trận này, từ dưới chiến thuyền, quân Tây Sơn bắn đại bác lớn lên hai bên bờ sông. Tiếng đại bác nổ như sấm rền, cây cổ thụ hai bên bờ sông đổ gẫy hàng loạt. Ngoài ra, còn có thể kể đến trận đánh thành Phú Xuân ngày 15-6-1786. Với uy lực tập trung, mãnh liệt, pháo binh Tây Sơn đã bắn vỡ từng mảng tường thành, uy hiếp tinh thần địch, tạo điều kiện cho bộ binh tiến lên tiêu diệt gọn quân địch ngay trong đêm đó.
Kỳ 1: Từ súng bắn đá đến cỗ đại bác nòng kim loại
Phạm Hoàng Hà (Tóm lược theo Lịch sử quân sự Việt Nam)