QĐND Online - Trong ngôi nhà nhỏ ở xóm Thái Bình (xã Nghi Thái- Nghi Lộc-Nghệ An), có một cựu chiến binh nay đã ở tuổi 76, từng tham gia trận đánh mở màn chiến dịch Mậu Thân năm 1968, cùng đồng đội diệt hơn một trăm lính Mỹ tại khách sạn Hương Giang (Huế). Ông cũng là người tham gia đào hầm bí mật giúp 46 chiến sỹ trốn thoát khỏi nhà tù Phú Quốc năm 1971. Những câu chuyện ít người biết đến, tưởng đã dần chìm vào quên lãng nay có dịp sống lại, khi đoàn làm phim về những chiến sỹ cách mạng bị địch bắt, tù đày ở miền Nam tìm về nhà ông-cựu tù Phú Quốc Vương Đức Thuận…

Trận đánh của các cảm tử quân

Sinh ra và lớn lên trong gia đình thuần nông ở vùng quê nghèo Nghi Thái, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Năm 1960, Vương Đức Thuận tình nguyện xung phong vào bộ đội. Ông được biên chế về Trung đoàn 271 (Quân khu 4), sau đó tham gia chiến đấu tại chiến trường C. 

Tháng 10 năm 1963, Vương Đức Thuận được điều về chiến đấu tại Thừa Thiên- Huế, thuộc quân số Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 10 (Quân khu 4). Trong trận đánh vào khách sạn Hương Giang (Huế) mở màn chiến dịch Mậu Thân 1968, ông là một trong 26 chiến sỹ cảm tử được Trung đoàn chọn tham gia trận đánh lịch sử này. Ông cùng đồng đội đã diệt hơn một trăm lính Mỹ, nhưng sau đó bị 5 sư đoàn của Ngụy bao vây phản công, khiến 24 người hi sinh. Trong trận đánh quyết liệt ấy, ông bị thương nặng, ngất đi. Khi tỉnh lại, ông thấy mình đang bị giam trong trại giam dã chiến của địch ở đồn Mang Cá (Huế), sau đó bị chuyển về giam cầm tại Đà Nẵng. Hai tháng sau, chúng chuyển ông đến nhà tù Phú Quốc.

Ông Vương Đức Thuận với vết thương ở chân.

Hơn 40 năm đã qua đi, song những năm tháng cùng đồng đội đấu tranh với địch tại nhà tù Phú Quốc vẫn hằn in trong trí nhớ của ông Thuận. Mặc dù bị địch dùng đủ mọi thủ đoạn tra tấn dã man như đóng đinh 10 phân vào đầu gối, dùng kim ghim vào 10 đầu ngón tay… nhưng ông vẫn một lòng trung thành với Tổ quốc, không khai báo nửa lời. Khi bị địch bắt ông đang là thiếu úy, giữ chức vụ trung đội trưởng và là đảng viên, nên được tổ chức tín nhiệm bầu vào Ban Thường vụ của Đảng bộ cộng sản trong nhà lao Phú Quốc. Ông phụ trách chi bộ 9 (gồm 18 đảng viên) và một chi đoàn thanh niên, liên tục đấu tranh, phản đối việc địch đánh đập, tra tấn và đòi các quyền lợi cho anh em trong tù; có thời điểm các ông tuyệt thực 11 ngày…

Giúp đồng đội vượt ngục, mình ở lại đấu tranh

Chuyện cùng các đồng chí của ta đào hầm vượt ngục năm 1971 có lẽ là một trong những kỷ niệm mà ông nhớ nhất. Khi ấy trại A5 có khoảng 500 chiến sỹ (chủ yếu ở miền Nam), chia làm 7 phòng. Lợi dụng lúc địch lơ là trong canh phòng, Đảng bộ nhà lao Phú Quốc chỉ đạo 4 chi bộ (1, 4, 5 và 7) tổ chức đào hầm vượt ngục. Chi bộ do Vương Đức Thuận phụ trách chọn 9 người tham gia đào hầm. Ròng rã suốt 2 tháng, các ông sử dụng cà men sắt dùng để ăn cơm, làm dụng cụ đào hầm. Ngày đào ít thì 1- 2 tiếng, ngày đào nhiều thì 3- 4 tiếng và luôn có 3 người nằm trên nắp hầm che mắt địch, nếu bị địch phát hiện thì sẵn sàng đứng lên chịu trách nhiệm. Để giữ bí mật, đất đào lên được các ông hòa vào nước trong thùng phi dùng cho tù nhân đi vệ sinh. Rút kinh nghiệm từ thất bại của 3 chi bộ trước, do đào lòng vòng trong phạm vi nhà lao nên lại quay về vị trí cũ, với kinh nghiệm của lính đặc công, cứ đào được 50m, ông lại cho làm một lỗ thông hơi lên phía trên để quan sát xem có vòng lại chỗ cũ không và có gần các điểm chốt của địch không? Với quyết tâm cao, chỉ từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1971, chi bộ 9 đã đào thành công đường hầm bí mật. Khi kiểm tra thấy miệng hầm đã vượt khỏi hàng rào trại giam và ngoài phạm vi bãi mìn quanh đó, Vương Đức Thuận và đồng đội báo cáo ngay Đảng ủy và được giao chủ động tổ chức cho anh em vượt ngục. Ông đã bố trí cho 46 đồng chí thoát ra ngoài, riêng mình tình nguyện ở lại với lý do lo ngại vết thương do địch đóng đinh ở đầu gối làm ảnh hưởng đến quá trình đào thoát của anh em. Người tù cộng sản kiên trung ấy đã tiếp tục bảo vệ nắp hầm và cùng các đồng chí trong tù liên tục đấu tranh trực diện với địch cho đến ngày được trao trả...

Mong mỏi của những người đồng đội

Sau vụ “biến mất” thần kỳ của 46 tù nhân ở nhà giam Phú Quốc, địch phân loại tù miền Nam, miền Bắc để giam riêng vì nghi có “kĩ sư đào hầm Điện Biên Phủ”. Vương Đức Thuận bị chuyển từ trại giam A5 sang trại D4 và là một trong những người tù cộng sản đầu tiên được địch trao trả tự do tại bờ sông Thạch Hãn-Quảng Trị (3-1973). Sau thời gian điều dưỡng tại Hà Nam Ninh (cũ), cuối năm 1973, chiến sĩ đã được báo tử Vương Đức Thuận trở về trong sự ngỡ ngàng của gia đình và bà con làng xóm, với tỷ lệ thương tật 54%.  

4 cô con gái của ông Thuận nay đều đã lập gia đình. Riêng người con trai đầu Vương Đức Bình, 50 tuổi, từng đi bộ đội, nay bị bệnh tâm thần vẫn do ông và vợ ông-bà Vương Thị Hồng, đã 74 tuổi chăm sóc. Lúc trái gió trở trời, phát bệnh, anh Bình lại đuổi đánh cả bố mẹ.  Mặc dù hoàn cảnh còn nhiều khó khăn như thế song lúc nào người cựu tù năm xưa cũng lạc quan, vui vẻ.

Ghi nhận những đóng góp của Vương Đức Thuận với sự nghiệp cách mạng của nước nhà, Đảng, Nhà nước đã trao tặng ông Kỷ niệm chương chiến sỹ cách mạng bị địch bắt, tù đày (4-2002), Huân chương kháng chiến, Huân chương giải phóng, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng...

Luôn khắc cốt ghi tâm những đóng góp xứng đáng của Vương Đức Thuận cho sự nghiệp cách mạng và sự hy sinh hết mình cho những đồng đội cùng chung cảnh tù đày, nhiều đồng đội của ông đang sống tại thành phố Hồ Chí Minh như Trần Xuân Việt, Nguyễn Hồng Minh...đã đề nghị Ban Liên lạc chiến sỹ cách mạng bị địch bắt, tù đày tỉnh Nghệ An tham mưu với UBND tỉnh làm hồ sơ đề nghị Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời chống Mỹ cho ông. Trưởng ban liên lạc chiến sỹ cách mạng bị địch bắt, tù đày tỉnh Nghệ An Nguyễn Xuân Thành chia sẻ: “Dù có danh hiệu cao quý ấy hay không thì những người đã không tiếc máu xương vì độc lập, tự do của Tổ quốc như đồng chí Vương Đức Thuận đều xứng đáng trở thành những  biểu tượng sống động trong lòng những người dân đất Việt”.

Bài, ảnh: XUÂN THỐNG