QĐND - Thực hiện nhiệm vụ quân sự của Đảng, ngày 25-7-1948, Bộ Tổng chỉ huy chủ trương mở Chiến dịch đường số 3 nhằm tiêu diệt một số cứ điểm của địch trên đường số 3, cô lập, uy hiếp, tiến tới buộc chúng phải rút khỏi Bắc Kạn.

Trước khi ta mở chiến dịch, tại đây địch có khoảng 3 tiểu đoàn. Các vị trí đóng quân của địch đều được xây dựng thành từng cứ điểm khá kiên cố, trang bị vũ khí đầy đủ và hiện đại. Tuy nhiên, mỗi cứ điểm địch bố trí cách xa nhau, nên khi ta tiến công, chúng dễ bị cô lập, khó ứng cứu cho nhau.

Lực lượng ta tham gia chiến dịch có các đơn vị của Bộ gồm 2 tiểu đoàn bộ binh và 2 đại đội pháo binh, công binh cùng các tiểu đoàn, bộ đội địa phương. Các đơn vị được quán triệt phương châm tác chiến “đánh điểm, diệt viện”. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tập trung bộ đội chủ lực Bộ và lực lượng vũ trang tập trung của tỉnh tiến công tiêu diệt từng cứ điểm của địch, trong đó mục tiêu quan trọng nhất là đồn Phủ Thông (nay thuộc xã Phương Linh, huyện Bạch Thông), cách thị xã Bắc Kạn 20km về phía Bắc; kết hợp phục kích trên đường giao thông, đánh quân tăng viện và tiếp tế của địch từ thị xã Bắc Kạn lên ứng cứu.

Chiến dịch đường số 3 diễn ra từ ngày 25-7-1948 đến 12-8-1948, đã đánh dấu bước trưởng thành về nghệ thuật tổ chức và sử dụng lực lượng tác chiến chiến dịch của quân đội ta. Trong chiến dịch này, Bộ chỉ huy chiến dịch tập trung một số đơn vị bộ binh chủ lực, pháo binh, công binh của Bộ và các đơn vị vũ trang tập trung của tỉnh, trong đó bộ đội chủ lực của Bộ làm nòng cốt đánh địch. Tiểu đoàn 11 (chủ lực của Bộ) được tăng cường một đại đội của Trung đoàn 72 và một đại đội pháo binh thuộc Tiểu đoàn 410 của Bộ, tiến công tiêu diệt đồn Phủ Thông, đây là mục tiêu chủ yếu quan trọng của chiến dịch. Tiểu đoàn 23 (Trung đoàn 74) tiến công địch ở Bằng Khẩu và dùng một bộ phận lực lượng đánh quấy rối Ngân Sơn. Tiểu đoàn 54 (Bộ) và Tiểu đoàn 55 (Trung đoàn 72) tiêu diệt viện binh địch từ thị xã Bắc Kạn lên.

Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 11 trước khi bước vào trận đánh đồn Phủ Thông. Ảnh tư liệu

 Quá trình chiến dịch, bộ đội ta đã vận dụng nhiều cách đánh, trong đó vận dụng sáng tạo cách đánh công kiên trong trận Phủ Thông. Trận này bắt đầu từ 18 giờ ngày 25-7, mở màn chiến dịch và kết thúc vào trưa ngày 26-7-1948, có ý nghĩa rất quan trọng. Điểm nổi bật của trận đánh này là bộ đội ta chọn phương pháp tiến công cường tập: Sử dụng hỏa lực pháo binh phá hủy một phần các lô cốt vật cản, công sự, hỏa điểm, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch trong đồn, sau đó bộ binh từ nhiều mũi, hướng bên ngoài đánh vào, nhanh chóng diệt địch. Tuy hình thức chiến thuật công kiên bước đầu được vận dụng, nhưng bộ đội ta đã khéo tổ chức đội hình chiến đấu gồm các bộ phận xung lực, hỏa lực và dự bị. Bộ phận xung lực tiến công trên hai hướng, trong đó sử dụng Đại đội 122 tiến công hướng Bắc, Đại đội 124 tiến công hướng Đông-Bắc; bộ phận hỏa lực chi viện cho các hướng và Đại đội 123 làm lực lượng dự bị. Do lần đầu vận dụng hình thức tác chiến công kiên, một hình thức tác chiến còn mới lạ, chưa am hiểu sâu về nguyên tắc lý luận chiến thuật, nên bộ đội ta chưa tập trung và phát huy tối đa vai trò của xung lực, hỏa lực tiến công địch trên hướng chủ yếu, mục tiêu trọng yếu để giành thắng lợi.

Trong khi đó, Bộ chỉ huy chiến dịch sử dụng một bộ phận lực lượng tiến hành các hoạt động quấy rối, đánh địch ở Bằng Khẩu, Ngân Sơn, Nà Phặc, thị xã Bắc Kạn và phục kích địch trên đường số 13, gây cho chúng một số thiệt hại. Từ ngày 28-7-1948, địch tăng cường lực lượng trấn giữ Phủ Thông, Bằng Khẩu, Ngân Sơn, khai thông đường số 3. Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy chiến dịch tập trung các tiểu đoàn đánh quấy rối địch ở thị xã Bắc Kạn và Phủ Thông; đánh địa lôi phục kích địch, phá hoại đường số 3 và tập kích tiêu hao địch ở Bằng Khẩu… Trước sự tăng viện và củng cố trận địa của địch, để bảo toàn lực lượng, Bộ chỉ huy chiến dịch chủ động kết thúc chiến dịch vào ngày 12-8-1948.

Chiến dịch đường số 3 là một trong những chiến dịch tiến công đầu tiên của quân đội ta trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, đã giành được thắng lợi đáng kể. Tuy nhiên, trận Phủ Thông và các trận đánh khác của bộ đội ta trong chiến dịch này chưa đạt mục tiêu đề ra, do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là ta chưa xác định rõ các hướng tiến công chủ yếu, thứ yếu để tổ chức và sử dụng lực lượng tập trung, có trọng điểm, mà dàn đều cho các hướng, nên lực lượng mỏng và bị phân tán; chỉ huy hiệp đồng giữa các mũi, hướng chưa chặt chẽ, nắm địch chưa rõ về cách bố phòng lực lượng và cấu trúc trận địa của địch. Riêng trận Phủ Thông, trận đánh công kiên mở đầu cho phong trào cường tập tiêu diệt các cứ điểm, đánh dấu bước phát triển mới về nghệ thuật tác chiến của quân đội ta. Trên cơ sở tổng kết, rút kinh nghiệm chiến dịch đường số 3 và một số chiến dịch trước đó, các đơn vị đã vận dụng, phát triển sáng tạo, linh hoạt và hiệu quả nghệ thuật tổ chức và sử dụng lực lượng lên tầm cao mới, giành thắng lợi trong nhiều chiến dịch từ năm 1949 đến năm 1952, tiến tới mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi oanh liệt, góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Đại tá, TS DƯƠNG ĐÌNH LẬP