QĐND - Lực lượng phòng không - không quân (PK-KQ), sau khi hoàn thành xuất sắc chiến dịch phòng không đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 của địch vào thủ đô Hà Nội và một số tỉnh, thành phố trên miền Bắc cuối năm 1972, lại khẩn trương chuẩn bị mọi mặt để tham gia tác chiến trên chiến trường phía Nam. Theo Chỉ thị của Bộ Quốc phòng và Quân ủy Trung ương, Bộ đội PK-KQ có 3 nhiệm vụ cơ bản: Tham gia trực tiếp tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng trên các chiến trường; tổ chức bảo vệ không phận vùng giải phóng và sẵn sàng đánh địch bảo vệ miền Bắc, nếu Mỹ liều lĩnh cho không quân đánh phá trở lại.
Tháng 3-1973, Quân chủng PK-KQ đưa 5 trung đoàn pháo cao xạ và 1 trung đoàn tên lửa vào phía Nam, thành lập Sư đoàn Phòng không 673 làm nhiệm vụ hoạt động tác chiến trên chiến trường Trị Thiên. Cũng trong thời gian này, quân chủng cơ động Sư đoàn PK 377 (có 6 trung đoàn pháo phòng không (PPK) vào hoạt động tác chiến trên chiến trường Tây Nguyên. Chấp hành chỉ thị của Bộ, Quân chủng PK-KQ đã lần lượt chuyển vào Nam 50% số trung đoàn PPK, 100% tên lửa tầm thấp A-72 và số lớn cán bộ để xây dựng lực lượng phòng không trên chiến trường, bảo đảm cho mỗi quân khu có 1 trung đoàn PPK, 1 đại đội tên lửa A-72 và 1 tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7 và xây dựng lực lượng phòng không của bộ đội địa phương, dân quân du kích trên khắp các địa bàn. Cuối năm 1973, chấp hành Chỉ thị của Bộ, Quân chủng PK-KQ đã nghiên cứu tổ chức Lữ đoàn KQ hỗn hợp 919, gồm KQ chiến đấu, KQ vận tải và KQ trực thăng. Các máy bay của Lữ đoàn KQ 919 đều sơn phù hiệu Quân giải phóng miền Nam, ngày đêm luyện tập ném bom, thả dù và cơ động bộ đội luôn sẵn sàng chờ lệnh tham gia tác chiến hiệp đồng. Bộ tư lệnh Quân chủng PK - KQ và chỉ huy Lữ đoàn KQ 919 đã chủ động khảo sát, nghiên cứu thiết lập đường bay từ miền Bắc vào các sân bay của ta ở vùng giải phóng như: Tà Cơn, Đắc Tô, Tân Cảnh, Lộc Ninh để thực hiện vận chuyển theo yêu cầu của chiến trường.
 |
Phi đội bay Quyết Thắng sau khi hoàn thành nhiệm vụ ném bom Dinh Độc lập và sân bay Tân Sơn Nhất. Ảnh tư liệu. |
Trong chiến dịch Tây Nguyên, lực lượng PK tham gia có Sư đoàn PK 377, với 5 trung đoàn pháo cao xạ, bảo vệ hoạt động tác chiến, chia cắt địch trên đường 19, 21, 14 và hoạt động tác chiến nghi binh chiến dịch ở Plây-cu, Kon Tum. Bộ đội PK-KQ được sử dụng hoàn thành tốt nhiệm vụ trong tất cả các giai đoạn tác chiến chiến dịch: Đánh chia cắt bao vây nghi binh, tiến công đánh chiếm Buôn Ma Thuột, đánh địch phản đột kích và truy kích địch rút chạy, thường vận động không kịp theo tốc độ vận động của bộ binh. Khi các sư đoàn bộ binh hành quân bằng xe cơ giới vận động từ ngoài vào đột kích, đánh chiếm Sở chỉ huy Sư đoàn 23 ngụy trong thị xã Buôn Ma Thuột ngày 11-3-1975, Trung đoàn pháo cao xạ 232 còn cách mục tiêu 2km, Trung đoàn pháo cao xạ 593 còn cách 6,5km, nên chưa phát huy được hỏa lực bảo vệ trực tiếp. Chỉ có lực lượng súng máy PK 12,7 và A-2 trong biên chế các sư đoàn đã đánh trả địch quyết liệt, bảo vệ đội hình tiến công của quân ta; khi bám sát các đơn vị bộ binh hành quân bằng cơ giới truy kích địch rút chạy cũng thường không theo kịp.
Ở chiến dịch tiến công Trị Thiên - Huế, ta đã chủ động làm đường kéo pháo, đưa pháo cao xạ vào ém sẵn ở ven đô trước khi bộ binh đột kích nên đã bảo vệ hoạt động đánh chiếm Huế rất hiệu quả, nhưng khi đưa pháo cao xạ thoát ly ở đội hình vào trước, lại làm giảm hỏa lực PK bảo vệ bộ binh. Rút kinh nghiệm chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế, đến chiến dịch Hồ Chí Minh, lực lượng cao xạ luôn đi theo đội hình cùng các mũi đột kích vào đánh chiếm nội đô, tổ chức cùng các tiểu đoàn làm đơn vị chiến thuật, có tiểu đoàn cao xạ đi trước đội hình, có tiểu đoàn cao xạ đi trong đội hình. Tổ chức như vậy, lực lượng pháo cao xạ luôn bám sát đánh địch trên không, đánh địch ở mặt đất, bảo vệ các binh đoàn cơ động thọc sâu trên các hướng trong suốt quá trình hành quân từ ngoài vào đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong các thành phố.
Để thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị huy động tổng lực thực hiện đòn chiến lược tổng công kích vào Sài Gòn, Bộ đội PK - KQ cũng bắt đầu các chuyến bay vận tải từ miền Bắc vào Huế và Đà Nẵng. Quân chủng PK - KQ nhanh chóng chuẩn bị cho các binh chủng KQ, tên lửa, ra-đa, pháo cao xạ vào trực tiếp tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh.
Tiểu đoàn 8 ra-đa, gồm 4 đại đội đã hành quân thần tốc trên đường Trường Sơn và đêm 24-4-1975 đã triển khai trong đội hình quản lý toàn bộ không gian chiến dịch. Trong 3 ngày cuối cùng của cuộc Tổng tiến công, Bộ đội ra-đa đã phát hiện 218 tốp máy bay địch, trong đó có 111 tốp bay di tản. Tình báo trên không của Bộ đội ra-đa đã giúp Bộ tư lệnh chiến dịch nắm chắc hoạt động di tản của địch để chỉ đạo chính xác hoạt động tiến công. Trung đoàn Ra-đa 290 cũng được lệnh chuyển dịch vào phía Nam, triển khai từ Quảng Trị đến Phan Thiết để khép kín trường ra-đa quản lý và bảo vệ vùng trời phía Nam.
Bộ đội Tên lửa cũng nhanh chóng đưa 4 trung đoàn vào chiến trường. Trung đoàn Tên lửa 267 trong đội hình Sư đoàn PK 375 bảo vệ Đà Nẵng. Trung đoàn tên lửa 275 trong đội hình Sư đoàn PK 365 bảo vệ Nha Trang, Cam Ranh; Trung đoàn Tên lửa 274 được lệnh hành quân vào chiến trường miền Đông, nhưng đang trên đường hành quân vào Nha Trang thì chiến dịch Hồ Chí Minh giành thắng lợi hoàn toàn.
Cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975 để lại những bài học kinh nghiệm quý trong tổ chức, sử dụng lực lượng PK-KQ tham gia tác chiến chiến dịch quân, binh chủng hợp thành quy mô lớn. Quân chủng PK-KQ tiếp tục nghiên cứu, học tập những bài học kinh nghiệm phong phú đó, vận dụng hiệu quả trong điều kiện mới của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Trung tướng NGUYỄN VĂN THANH - Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân chủng PK-KQ