QĐND - Sau khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, phong trào đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ đã phát triển thành đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên chiến tranh giải phóng. Tháng 2-1961, lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam chính thức được thành lập. Các ban Quân sự được tổ chức thành Bộ tư lệnh Miền và Bộ tư lệnh các quân khu. Theo đó, tổ chức Hậu cần Miền và Quân khu cũng lần lượt được thành lập trên cơ sở các cơ sở hậu cần tại các căn cứ.
Chấp hành chỉ thị của Quân ủy Trung ương về hoạt động Đông Xuân 1964-1965 nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực của Quân đội Sài Gòn để mở rộng vùng giải phóng. Bộ tư lệnh Miền đã quyết định mở một số chiến dịch tiến công như Chiến dịch Bình Giã trên địa bàn Bà Rịa, Biên Hòa, Bình Thuận. Chiến dịch Đồng Xoài trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Việc mở chiến dịch nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực của địch, hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng nổi dậy, đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng căn cứ tạo hành lang thuận lợi tiếp nhận vũ khí từ hậu phương miền Bắc chuyển vào bằng đường biển. Để bảo đảm cho các chiến dịch, nhiệm vụ đặt ra cho cơ quan hậu cần hết sức nặng nề. Song, với sự nỗ lực vượt bậc, bằng nghệ thuật sáng tạo, lực lượng hậu cần chiến dịch đã chuẩn bị vật chất vượt nhu cầu chiến dịch đề ra. Với Chiến dịch Bình Giã, hậu cần chiến dịch đã chuẩn bị được 750 tấn gạo (yêu cầu đặt ra là 480 tấn gạo), 2 tháng thực phẩm; thu dung cứu chữa 500 thương binh. Chiến dịch Đồng Xoài, lực lượng hậu cần chiến dịch đã chuẩn bị được 1.030 tấn gạo (yêu cầu là 810 tấn gạo), 75 tấn thực phẩm, 82 tấn đạn; thu dung cứu chữa 800 thương binh.
 |
Sơ đồ bố trí các Đoàn Hậu cần Miền cuối năm 1964.
|
Để chuẩn bị cho các chiến dịch lớn đầu tiên của lực lượng chủ lực Miền, Hậu cần Miền đã tổ chức được một thế trận hậu cần liên hoàn chi viện cho nhau. Đoàn Hậu cần 81 (ở căn cứ Khu A), bảo đảm cho các lực lượng hoạt động tác chiến trong khu vực Bắc đường 1, đường 13 tới ngã tư Chơn Thành, đường 14 đến Bù Đăng. Đoàn Hậu cần 82 (ở căn cứ Khu B), bảo đảm cho các lực lượng hoạt động tác chiến trong khu vực Đông và Tây đường 22 tới biên giới Cam-pu-chia. Đoàn Hậu cần 83 (ở căn cứ Khu C), bảo đảm cho các lực lượng hoạt động tác chiến trong khu vực Củ Chi, Hóc Môn, Bến Cát, Tây đường 13. Đoàn 1500 và Đoàn K10 (ở căn cứ Khu E) thuộc Bà Rịa, Long Khánh có nhiệm vụ tiếp nhận vũ khí, đạn, vật chất từ Bến Tre đưa lên và từ hậu phương miền Bắc chuyển vào bằng đường biển qua cửa sông Ray. Ngoài những đoàn hậu cần khu vực, Hậu cần Miền còn tổ chức “Bộ phận tiếp liệu ngoại” đứng chân tại Phnôm Pênh và một số địa điểm vùng biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia để khai thác vật chất hậu cần trên đất bạn phục vụ trực tiếp cho các chiến dịch. Với thế trận như vậy, nên khi ta mở chiến dịch, các đoàn hậu cần đã hiệp đồng chi viện cho nhau bảo đảm đủ nhu cầu vật chất, cứu chữa thương binh cho các lực lượng cơ động chiến đấu.
Trong công tác bảo đảm hậu cần, ta đã phối hợp và kết hợp chặt chẽ giữa hậu cần bộ đội chủ lực với hậu cần địa phương, hậu cần nhân dân tại chỗ để bảo đảm cho tác chiến. Kế thừa kinh nghiệm bảo đảm hậu cần trong kháng chiến chống Pháp, Bộ tư lệnh Miền đã tổ chức Hội đồng Cung cấp tiền phương các cấp, từ Miền tới quân khu, tỉnh, huyện, xã đảm nhiệm việc huy động nhân tài, vật lực tại chỗ địa phương để phục vụ chiến dịch. Đặc biệt là trong Bộ chỉ huy chiến dịch có đồng chí Khu ủy viên Khu 7 và đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa tham gia. Các đồng chí đã trực tiếp chỉ đạo việc huy động nhân lực, vật lực tại địa phương bảo đảm cho tác chiến. Do đó, mặc dù trong điều kiện địch kiểm soát hết sức gắt gao, nhưng được sự giúp đỡ của nhân dân vào tận trong vùng địch kiểm soát để thu gom lương thực, thực phẩm và vận chuyển về căn cứ bằng nhiều loại phương tiện như: Xe bò kéo, xe lôi, xe lam, gánh bộ… Nhờ vậy, Hậu cần chiến dịch đã khai thác trên địa bàn được hơn 280 tấn gạo. Đó là những sáng tạo mới trong nghệ thuật tổ chức huy động vật chất hậu cần bảo đảm cho một số chiến dịch đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ.
Thành công trong công tác bảo đảm hậu cần cho một số chiến dịch tiến công đầu tiên trên chiến trường Nam Bộ là cả một nghệ thuật về tổ chức và phương pháp tiến hành, đã để lại những bài học kinh nghiệm về tổ chức lực lượng và bảo đảm hậu cần không chỉ với những chiến dịch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, mà vẫn còn nguyên giá trị trong nghiên cứu, phát triển bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới.
Đại tá ĐỖ ĐẮC YÊN