QĐND Online - Trong những năm 1967-1968 và 1972-1973, với âm mưu thâm độc nhằm tìm mọi cách ngăn chặn miền Bắc chi viện cho miền Nam, đồng thời ngăn chặn sự chi viện của quốc tế cho Việt Nan, đế quốc Mỹ đã sử dụng thủy lôi và bom từ trường hòng “bịt lấp” các cửa sông, cửa biển miền Bắc. Hải quân nhân dân Việt Nam cùng với quân dân cả nước bước vào cuộc chiến đấu đầy cam go, ác liệt. 40 năm đã trôi qua, những chiến công trong rà phá thủy lôi và bom từ trường của bộ đội Hải quân vẫn được nhắc đến như một minh chứng cho tinh thần không chịu khuất phục trước kẻ thù. Qua các lời kể của nhân chứng, những người đã trực tiếp tham gia làm nhiệm vụ, phục vụ chiến đấu càng làm cho mỗi chúng ta trân trọng, cảm phục và tự hào.

Ông Trương Thế Hùng tháo quả thủy lôi đầu tiên năm 1967.

Bài 1: Người mở khóa vào cửa tử

Ông là Đại úy Trương Thế Hùng, Nguyên Đội trưởng Đội 8 Công binh Hải quân-người tháo gỡ thành công quả thủy lôi đầu tiên mở đường cho quân dân miền Bắc tìm ra phương tiện rà phá thủy lôi sau này. Chúng tôi gọi ông là người mở được khóa vào cửa tử.

Một sáng chủ nhật, tôi tìm đến nhà ông tại ngõ 137, đường Trần Phú, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Không khác nhiều so với những gì tôi hình dung về ông. Khuôn mặt chữ điền, lông mày rậm, mắt luôn nhìn thẳng, khiến ai gặp ông lần đầu đều thấy gần gũi, quý mến.

Nhớ lại những ngày đối mặt với tử thần trên chiến trường sông biển miền Bắc, ông Hùng kể: Đúng như nhận định của ta, đêm 27 rạng ngày 28-2-1967, Mỹ đã sử dụng nhiều lần chiếc máy bay bao gồm: A6A, A3B, A4, A6, A7 tiến hành thả một số lượng lớn thuỷ lôi MK-50, MK-52 và bom từ trường DST-36 mang đầu nổ MK-42 xuống hầu hết các cửa sông ở Khu 4 mà trọng điểm là 4 cửa sông lớn: sông Mã- Thanh Hóa, sông Gianh-Quảng Bình, cửa Hội-Nghệ An, sông Nhật Lệ-Quảng Bình và 20 cửa sông khác ở miền Bắc, nhằm làm tê liệt đường vận chuyển trên sông biển của ta.

Để hóa giải những quả thủy lôi, khơi thông luồng lạch, không còn cách nào khác là phải bắt chúng “mở miệng”. Lúc bấy giờ ông Trương Thế Hùng là một trong những sĩ quan được đào tạo cơ bản về vũ khí dưới nước tại Trung Quốc nên Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định chọn ông và 2 cộng sự là ông Trần Thanh Hoài và Đào Kỳ vào Khu IV thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu chiến trường và làm nhiệm vụ tiền trạm chuẩn bị đưa đơn vị vào.

Ngày 3-3-1967, ông Hùng và 2 cộng sự lên đường vào Khu IV bằng xe đạp, vượt quãng đường hơn 400 cây số từ Hải Phòng vào Nghệ An. Đường vào tuyến lửa những ngày ấy vô cùng ác liệt, bom đạn bời bời, sống chết chỉ trong gang tấc. Vào Nghệ An, đoàn công tác mới biết công binh Quảng Bình vừa vớt được 2 quả thuỷ lôi hình dáng khác nhau ở mép sông gần khu vực bến phà sông Gianh. Ông Trương Thế Hùng đề nghị Quân khu 4 giữ nguyên hiện trường. Ngày hôm sau, các ông tức tốc vào Quảng Bình; vừa qua đèo Ngang gặp xe tải của Tỉnh đội Quảng Bình chở 2 quả thuỷ lôi ra Nghệ An vì khu vực phà sông Gianh đang là trọng điểm đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ nên khó bảo đảm an toàn. Các ông đã yêu cầu chở thuỷ lôi ra Nam Đàn -Nghệ An, đặt cách xa nhau đề phòng chúng kích nổ lẫn nhau.

Ông Trương Thế Hùng  giới thiệu cho các em sinh viên về thủy lôi MK-50 và MK-52 tại Bảo tàng Hải quân.

 

Thay mặt đoàn công tác, ông Trương Thế Hùng báo cáo tình hình với Tư lệnh Hải quân và nhận được chỉ thị: Bằng mọi cách phải tháo gỡ thuỷ lôi ngay tại chỗ, tháo gỡ hoàn chỉnh và giữ nguyên vẹn để nghiên cứu, nắm được tính năng và nguyên lý gây nổ của thuỷ lôi địch.

Ngày 13-3-1967, ba ông Hùng, Hoài, Kỳ về Nam Đàn, Nghệ An chuẩn bị cho công việc tháo thuỷ lôi. Hai quả thuỷ lôi đặt trong một ngôi miếu ở giữa cánh đồng Nam Đàn. Khi tiếp cận thủy lôi, các ông đều nhận định: Hai quả thuỷ lôi được chở bằng xe ô tô từ Quảng Bình ra vẫn an toàn, điều đó cho phép có thể tháo được chúng.

Tháo thủy lôi là nhiệm vụ rất nguy hiểm, lúc bấy giờ các bác có được trang bị dụng cụ chuyên dụng tháo gỡ không ạ?-Tôi hỏi:

-Không. Không có dụng cụ chuyên dụng nào cả, ông khẳng định. Tính toán kỹ, cuối cùng chúng tôi quyết định lấy dụng cụ chữa xe đạp dọc đường để tháo. Đây là dụng cụ không an toàn nhưng trong hoàn cảnh đó, không còn cách nào khác. Chúng tôi xác định làm liều, tuy nhiên, liều có cơ sở khoa học. Thứ nhất, thủy lôi được vận chuyển từ Quảng Bình ra bằng xe ô tô nhưng không hề kích nổ. Thứ 2, thủy lôi không chịu áp lực nước nên chứng tỏ chúng đang ở trang thái bình thường. Đó chính là những cơ sở để chúng tôi “liều”.

Ngừng một lát ông Hùng kể tiếp: Trước khi tháo, tôi chụp ảnh thuỷ lôi đề phòng có nổ cũng có hình ảnh lưu lại. Hai đồng chí Kỳ, Hoài nấp sau một mô đất cách vị trí tôi tháo khoảng 10m. Chúng tôi thống nhất đánh số thứ tự 8 con ốc ở ngòi nổ và quy ước khi tháo phải hô to cho 2 người kia biết thứ tự từng ốc đang tháo. Làm như vậy thuỷ lôi có nổ còn biết nổ ở ốc thứ mấy.

-Giây phút đặt chiếc mỏ lết lên chiếc ốc ngòi nổ đầu tiên, mọi người đều nín thở. Chưa bao giờ thời gian trôi chậm đến thế. Thời tiết tháng ba mà mồ hôi toát ra như tắm, căng thẳng đến tột độ, những con ốc dính đầy bùn đất, dụng cụ thì chỉ là chiếc mỏ lết bình thường, tôi phải nhích dần, nhích dần từng ly một. "Ốc số một "- tôi hô to. Ốc số hai... và khi ốc số 8 - con ốc vít cuối cùng ở ngòi nổ rời khỏi khối thuốc, tôi thở phào. Nhưng đề phòng địch cài bẫy trong ngòi nổ, tay tôi ấn chặt và từ từ tháo ngòi nổ ra. Lúc này Kỳ và Hoài chạy lại, 3 anh em ôm chầm lấy nhau mà nước mắt cứ trào ra...

Sau đó các ông cùng nhau tháo bộ máy gây nổ phía sau thuỷ lôi. Việc này cũng vất vả không kém, phải lần lượt tháo hết 24 con ốc phía ngoài, 4 con ốc kẹp chặt phía trong, ba anh em phải gồng mình lùa bộ máy gây nổ nặng vài chục cân theo hai đường rãnh ở thuỷ lôi đưa ra ngoài. Quả thuỷ lôi MK-50 cũng tiến hành tương tự, hơn một giờ sau nó được gỡ an toàn trước sự mừng vui khôn xiết của đồng đội. 

Việc tháo gỡ thành công hai quả thuỷ lôi rất quan trọng; là cơ sở để nghiên cứu tính năng, nguyên lý hoạt động thuỷ lôi địch, là hiện vật để giới thiệu, huấn luyện cho các lực lượng tham gia tháo gỡ, đồng thời là tiền đề để Hải quân nghiên cứu, chế tạo những thiết bị, phương tiện rà phá thuỷ lôi Mỹ sau này.

TRỊNH VĂN DŨNG

Bài 2: Bắt sống “tử thần” trên sông biển