QĐND Online - Hiệp định Pa-ri ký kết, cùng với việc rút quân về nước, Mỹ còn có nghĩa vụ, trách nhiệm rà phá làm sạch bom mìn do Mỹ thả xuống vùng biển miền Bắc trong 2 cuộc chiến tranh phá hoại từ năm 1967 đến 1973.
Để đấu tranh buộc Mỹ phải thi hành nghiêm chỉnh những điều khoản mà Mỹ đã ký tại Pa-ri, được Chính phủ ủy quyền, ngày 14-3-1973, Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 36/QĐ-QP thành lập Đoàn đại biểu đàm phán với Mỹ. Đoàn đại biểu Việt Nam có 8 thành viên do Thượng tá Hoàng Hữu Thái, Phó Tư lệnh Hải quân làm trưởng đoàn. Đoàn đại diện cho Chính phủ Mỹ do Chuẩn Đô đốc Mắc-Cao ly (Mc-Cauley) phụ trách.
 |
Tàu của Biên đội 78 đặc nhiệm vào rà phá thủy lôi, bom từ trường tại Việt Nam năm 1973.
|
Theo quy định của Hiệp định đã được Bộ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam dân chủ cộng hòa Nguyễn Duy Trinh, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình, Chính phủ Hoa Kỳ Uy-li-am Rô-giơ, Tổng trưởng ngoại giao Việt Nam cộng hòa Trần Văn Lắm ký, Mỹ phải chịu trách nhiệm làm sạch tất cả các loại thủy lôi, bom mìn tại các cửa sông, cửa biển, luồng lạch và ngoài khơi vùng biển miền Bắc Việt Nam trong thời hạn một năm kể từ ngày Hiệp định và các nghị định kèm theo được ký kết và buộc Mỹ phải bằng mọi cách thi hành hiệp định.
Biết không thể chối bỏ trách nhiệm, ngày 6-2-1973, trước sự đấu tranh khôn khéo, kiên quyết của ta, Mỹ đưa Biên đội Đặc nhiệm 78 chuyên rà phá thủy lôi vào vùng biển Hải Phòng. Biên đội 78 khá hùng mạnh, gồm 5003 sĩ quan, binh lính, 44 tàu chiến, tàu quét mìn, 45 máy bay lên thẳng, trong đó có trực thăng hiện đại CH-53 cùng các phương tiện trang bị kỹ thuật tinh vi hiện đại và bảo đảm hậu cần chu đáo cho cả thời gian dài hàng năm mà không cần bổ sung.
Với trang bị hiện đại và công tác bảo đảm quá đầy đủ như vậy, có người cho rằng chỉ trong thời gian ngắn 2 đến 3 tháng, Mỹ sẽ giải quyết xong toàn bộ số bom mìn ở vùng biển Việt Nam. Song dư luận đã nhầm, với dã tâm phá hoại Hiệp định Pa-ri và giữ thể diện cho một nước lớn, tuy đã thua nhưng không thể tuân theo những điều khoản mà phía Việt Nam đưa ra, Biên đội 78 chỉ vớt ở ngoài khơi, gần đường hàng hải quốc tế, những nơi mà Mỹ biết rất rõ là có ít bom mìn, thủy lôi, không đưa lực lượng vào các cửa biển, cửa sông, các luồng ra vào cảng.
Chưa phá được quả nào thì ngày 28-2-1973, Mỹ tự ý rút Biên đội 78 vào vùng biển Sầm Sơn, Thanh Hóa, nơi mà các lượng rà phá của ta đã quét sạch bom mìn và ngay cả việc di chuyển vào vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, Mỹ cũng không thông báo cho ta biết. Đã thế, xảo quyệt hơn, lợi dụng việc Chính phủ ta cho phép đi lại ở thành phố Hải Phòng, Mỹ còn đưa lực lượng không có nhiệm vụ rà phá vào hoạt động tình báo. Một số nhân viên Mỹ tìm cách tiếp xúc với các phần tử có thái độ ngấm ngầm chống đối Nhà nước Việt Nam, chụp ảnh, thu thập tin tức về quân sự, chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng không chỉ ở Hải Phòng mà cả các địa phương khác.
Trước việc làm thiếu trách nhiệm của Mỹ, ta đấu tranh với thái độ kiên quyết buộc Mỹ thi hành nghiêm chỉnh Nghị định của Hiệp định Pa-ri. Ngày 6-3-1973, Mỹ buộc phải đưa lực lượng trở lại khu vực biển Hải Phòng. Nhưng đến ngày 17 tháng 4, lấy cớ ta đánh chiếm vùng giải phóng, Mỹ lại rút Biên đội 78 về căn cứ Xu-bíc ở Phi-líp-pin.
Kiên trì đấu tranh đòi Mỹ phải thực thi Hiệp định, ngày 17- 6, đại diện Chính phủ ta ở Pa-ri ra thông báo cảnh cáo và yêu cầu Mỹ phải tiếp tục rà phá theo quy định. Biết không thể lẩn trốn trách nhiệm, ngày 18-6, Mỹ cho Biên đội 78 quay lại vùng biển Hải Phòng và ra thông báo cam kết làm sạch ở đâu thông báo cho ta biết ở đó và khi hoàn thành toàn bộ công việc sẽ ra thông báo cuối cùng, đồng thời chấm dứt hoàn toàn, vô thời hạn việc trinh sát trên không lãnh thổ Việt Nam.
 |
Đồng chí Hoàng Hữu Thái, Phó Tư lệnh Hải quan, Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam cùng Đoàn Mỹ sang Việt Nam thực hiện rà phá thủy lôi theo quy định đã ký kết.
|
Tuy nhiên Mỹ vẫn tỏ thái độ thiếu thiện chí. Có trong tay hơn nửa vạn quân, gần một trăm tàu chiến, tàu quét lôi, máy bay rà thủy lôi, máy phá thủy lôi bằng âm thanh, từ tính, nhưng 5 tháng từ (tháng 3 đến tháng 8 năm 1973) trên các luồng Nam Triệu, Lạch Huyện, Hòn Gai, Cẩm Phả, Cửa Hội, Cửa Sót, Hòn La, Quảng Hưng, chúng chỉ rà phá được 3 quả thủy lôi ở ngoài luồng Nam Triệu nơi mà quân và dân ta chưa rà quét tới. Ngược lại, Mỹ bị cháy 1 tàu quét mìn, rơi 3 máy bay lên thẳng, 10 quân nhân chết và bị thương, nhiều khí tài, thiết bị, dụng cụ hư hỏng, mất mát. Trong khi đó lực lượng Hải quân Việt Nam nhỏ bé, phương tiện thô sơ nhưng cả hai giai đoạn chống phong tỏa đã phá nổ 2.398 quả thủy lôi, bom từ trường trong tổng số 3.906 quả, chiếm 64,4% do bộ đội chủ lực rà phá. Riêng giai đoạn hai từ tháng 5 năm 1972 đến tháng 3 năm 1973 các lực lượng Hải quân đã phá nổ 1.151 quả mà hầu hết các quả đó đều nằm ở những nơi xa, khó các phương tiện ngoài quân đội không đến được, góp phần quan trọng có ý nghĩa quyết định khai thông luồng lạch, giữ vững mạch máu giao thông đường biển, bảo đảm an toàn giao thương của Việt Nam với các nước và miền Bắc với miền Nam.
Việc Mỹ chỉ phá được 3 quả thủy lôi trong thời gian 5 tháng, không phải do trình độ khoa học kỹ thuật quân sự và khả năng của Mỹ kém. Vào thời điểm năm 1973, các phương tiện, khí tài rà phá nói trên của Mỹ đứng hàng đầu, tiên tiến nhất thế giới. Như Mỹ đã từng huyênh hoang tuyên bố, chỉ cần ngồi tại chỗ, bên kia bờ Đaị Tây Dương ấn nút, cũng có thể làm nổ toàn bộ số bom mìn đã rải xuống vùng biển Việt Nam. Song trên thực tế, việc làm của Mỹ đi ngược với việc Mỹ tuyên bố.
Vậy, cần hiểu thực chất việc rà phá bom mìn của Mỹ thế nào cho đúng. Việc đưa lực lượng lớn vào vùng biển Việt Nam, Mỹ thừa biết sẽ tốn kém như thế nào, nhưng đã thò tay ký vào văn bản của Hiệp định bốn bên dưới sự chứng kiến và giám sát của các thành viên Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc, Mỹ không thể trốn tránh trách nhiệm, muốn hay không vẫn phải "kéo cày trả nợ". Tuy nhiên, do buộc phải làm, nên về hình thức thì đưa lực lượng hùng hậu vào nhưng trong lòng và thực tâm Mỹ rất hậm hực. Hậm hực vì một nước lớn, giàu và mạnh lại phải cam chịu "kéo cày trả nợ "cho một nước nhỏ. Chính từ nhận thức tức tối, có tính thù hằn đó, nên có lực lượng tinh nhuệ, hiện đại trong tay, Mỹ cũng chỉ làm cho qua chuyện, cốt để che mặt thế gian, cho quốc tế biết đã có mặt tại Việt Nam theo quy định của Hiệp định Pa-ri. Do đó, trên thực địa Mỹ chỉ rà quét ở những nơi mà Mỹ biết mười mươi là không có thủy lôi, bom mìn. Những vị trí thả đều đã được đánh dấu chính xác trên bản đồ và xác định rõ bằng tọa độ trên biển, nên không thể có chuyện nói Mỹ không nhớ thủy lôi nằm ở đâu để biện hộ cho thái độ thiếu trách nhiệm của Mỹ trong việc rà phá bom mìn mà Mỹ đã rải xuống vùng biển Việt Nam trong 2 cuộc chiến tranh phá hoại, gây nhiều mất mát, đau thương, thiệt hại cho nhân dân ta.
TRỊNH VĂN DŨNG
Bài 1: Người mở khóa vào cửa tử
Bài 2: Bắt sống “tử thần” trên sông biển
Bài 3: Quả thủy lôi cắm cát và câu hỏi của Bộ
Bài 4: Tiểu đoàn 1 quét lôi – một thời ngang dọc