QĐND Online - Sau khi tháo thành công 2 quả thủy lôi MK-52 và MK50 tại Nam Đàn-Nghệ An, ông Trương Thế Hùng và các cộng sự đã nhanh chóng giới thiệu sơ bộ hai quả thủy lôi này cho cán bộ Quân khu 4 và tổ chức lớp huấn luyện rà phá thủy lôi cho cán bộ công binh tỉnh đội Nghệ Tĩnh, huyện đội Nghi Lộc, Nghi Xuân, Đồn Công an vũ trang Cửa Hội, Trạm Bảo đảm Hàng Hải cảng Bến Thủy. Vài ngày sau, 2 quả thủy lôi này được chuyển ra Bộ Tư lệnh Hải quân tại Hải Phòng để nghiên cứu, dò tìm mạch điện, lên sơ đồ tìm nguyên lý gây nổ của thủy lôi để có cơ sở sản xuất phương tiện rà phá. Đây là một bước vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có những cán bộ kỹ thuật giỏi, tinh thông nghiệp vụ mới có thể thực hiện.

Thiết bị rà phá thủy lôi và bom từ trường HT-5 được lắp đặt trên ca nô C30.

Không chịu bó tay khuất phục trước tử thần sông biển, Bộ tư lệnh Hải quân đã giao cho ông Trương Thế Hùng phối hợp với ông Nguyễn Khoái, nguyên Giám đốc Xưởng 56 Hải quân nghiên cứu vẽ lại sơ đồ mạch điện và nguyên lý gây nổ của thủy lôi.

Ông Nguyễn Khoái kể lại: Sau khi tháo được quả thủy lôi về, nhiệm vụ của cán bộ, công nhân Xưởng 56 là mổ xẻ, phanh phui, tìm hiểu tất cả những tính năng, kỹ chiến thuật của nó. Trên cơ sở đó, chúng tôi vẽ sơ đồ nguyên lí, vẽ sơ đồ mạch điện, tìm hiểu các phương pháp xem địch sử dụng thế nào, chiến thuật ra sao? Chỉ trong vòng 20 ngày, chúng tôi đã tìm ra nguyên lý, cấu tạo, hoạt động và lập được sơ đồ mạch điện của thủy lôi MK-52 (cảm ứng từ) và MK-50 (âm thanh). Ngay lập tức, Bộ tư lệnh Hải quân chỉ thị cho Xưởng X46 lựa chọn một số đồng chí cán bộ chuyên ngành tham gia thiết kế, chế tạo thiết bị rà phá thủy lôi. Đồng chí Nguyễn Trọng Bích là cán bộ kỹ thuật điện của Nhà máy được giao phụ trách chính.

Căn cứ vào sơ đồ mạch điện nguyên lý nổ của thủy lôi mà đồng chí Nguyễn Khoái và các cộng sự đã tìm ra, đồng chí Nguyễn Trọng Bích đã mạnh dạn đưa ra sơ đồ thiết kế thiết bị rà phá thủy lôi đầu tiên có tên là HDL-9 (ký hiệu này thực tế là các chữ viết tắt: H là Hải quân, DL là diệt lôi, số 9 là sản xuất vào tháng 9 năm 1967).

Sau khi thiết bị HDL-9 hoàn thành đã thử nghiệm và đưa ra rà phá thí điểm. Trong 3 đêm liên tục từ ngày 2 đến ngày 4-2-1968, đồng chí Trịnh Thanh Tơ và đồng chí Ngô Tấn Khoa (Đội 8 Công binh Hải quân) điều khiển HDL-9 rà phá thủy lôi ở khu vực ngã ba sông Tam Bạc đến cầu Niệm Nghĩa và các khu vực phà Cựu, phà Khuể- Hải Phòng, đã phá nổ 17 quả bom từ trường DST-36. Quả nổ gần nhất là 20 m, quả nổ xa nhất là 100m và đều nổ ở phía trước an toàn.

Thiết bị rà phá HDL-9 đưa vào thử nghiệm tại sông Tam Bạc-Hải Phòng

Ông Trương Thế Hùng cho biết: Qua thực tế chiến đấu, HDL-9 thực sự là phương tiện chủ lực để rà phá thủy lôi trên các sông ở khu vực Hải Phòng, góp phần giải phóng luồng lạch, bảo đảm an toàn giao thông. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của HDL-9 là khi sông có dòng chảy lớn sẽ không phát huy được hiệu quả.

Ông Tăng Đình Tiến, nguyên Phó giám đốc Nhà máy X46 Hải quân cho kể lại: Năm 1968, tranh thủ thời gian địch ngừng đánh phá, ta mở chiến dịch VT-5 (1-1-1968) tập trung phương tiện vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy từ các nơi vào Quân khu 4 để tiếp tục vận chuyển theo đường Hồ Chí Minh trên đường Trường Sơn cho miền Nam. Vấn đề đặt ra là phải khẩn trương rà phá thủy lôi, công khai các tuyến đường thủy ở Quảng Bình nhất là tuyến sông Gianh đi bến phà Xuân Sơn. Trước tình hình đó, đồng chí Nguyễn Trọng Bích cùng với các bộ phận nghiên cứu và cán bộ kỹ thuật Xưởng 46 Hải quân đã thiết kế, chế tạo thành công một thiết bị rà phá mới cơ động gọn, nhẹ, dễ sử dụng hơn HDL-9 mang tên là HT-5 (H là Hải quân, T là từ trường, 5 là tháng 5 năm 1968).

Sau khi chế tạo, thiết bị HT-5 được lắp trên ca nô C45 rà phá thí điểm ở sông Gianh (Quảng Bình) đã phá nổ 18 quả bom từ tường. Xưởng 46 sản xuất thêm 3 chiếc nữa lắp trên ca nô C28, C30, C51 để tập trung rà phá mở luồng ở bến phà Xuân Sơn. Trong quá trình sử dụng, do dòng điện phóng từ mạnh nên cầu dao bằng đồng bị cháy dần, rất nhanh hỏng và trong quá trình rà phá việc đóng mở cầu dao thủ công vừa gây ra tình trạng căng thẳng cho bộ đội, vừa không chính xác…

Để khắc phục nhược điểm trên, tháng 6-1968, đồng chí Nguyễn Trọng Bích cùng bộ phận nghiên cứu, cải tiến khống chế tự động và hộp cầu dao dầu cách điện cho HT-5. Xưởng 46 sản xuất thêm 4 thiết bị phóng từ HT-5 cải tiến mang tên HT-6. HT-6 hoạt động vừa thuận tiện, chính xác, an toàn và có độ bền cao hơn HT-5. Các thiết bị này cùng với thiết bị phóng từ KCN lắp trên ca nô của Tổng cục Hậu cần và khung dây điện từ trên cạn của Viện Kỹ thuật quân sự-Bộ Quốc phòng… tham gia rà phá thủy lôi, bom từ trường, giải phóng luồng lạch, góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch VT-5.

Ống phóng từ KCN lắp đặt trên ca nô do Tổng cục Hậu cần sản xuất.

Trước những bế tắc của hội nghị Pa-ri và để cứu vãn sự thất bại liên tiếp của Mỹ-ngụy trên chiến trường miền Nam, bất chấp sự phản đối của dư luận quốc tế và trong nước, tổng thống Mỹ Nich-xơn ngang nhiên phát động cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa miền Bắc lần thứ 2 với quy mô tàn ác và khốc liệt hơn. Ngày 6-4-1972, địch dùng không quân và hải quân đánh phá trở lại miền Bắc. Ngày 16-4-1972, chúng dùng máy bay chiến lược B52 ném bom rải thảm ở Hải Phòng. Ngày 9-5-1972, máy bay Mỹ ồ ạt thả các loại thủy lôi, bom từ trường xuống tuyến hàng hải quốc tế cửa Nam Triệu-Hải Phòng và toàn bộ hệ thống cầu cảng, bến phà, cửa sông, ven biển trên toàn miền Bắc. Sau đó chúng liên tiếp thả bổ sung ngăn chặn sự phá gỡ của ta và duy trì sự uy hiếp của trận địa thủy lôi. Trước khi ký Hiệp đinh Pa-ri, chúng còn tiến hành đợt thả thủy lôi cuối cùng ở Cửa Hội (Nghệ An) vào ngày 13-1-1973.

Vũ khí thủy lôi và bom từ trường địch sử dụng phong tỏa lần này được cải tiến nhiều lần (từ Mod0 đến Mod4) để đánh các tàu có trọng tải từ 800 tấn trở lên. Các thiết bị của ta trước đây không thể rà phá được, đòi hỏi phải có thiết bị hiện đại hơn, công suất mạnh hơn, phù hợp với nguyên lý cải tiến của địch để rà phá thủy lôi.

Trên cơ sở nguyên lý của thiết bị phóng từ HDL-9, được sự giúp đỡ của bộ phận nghiên cứu và một số cán bộ, công nhân Xưởng 56, nhất là sự đóng góp của đồng chí Nguyễn Khoái, Giám đốc X56, tập thể cán bộ, công nhân Xưởng 46 đã nghiên cứu, thiết kế cải tiến tàu vận tải đổ bộ V412 thành tàu phóng từ để rà phá thủy lôi ở trong sông và ven biển.

Bằng những nỗ lực khắc phục khó khăn, lao động sáng tạo, quên mình của cán bộ, công nhân, chiếc tàu phóng từ đầu tiên đã hoàn thành. Đêm ngày 10-7-1972, Tàu V412 rà phá thử nghiệm ở điểm 3, Khu 1, luồng Nam Triệu đã phá nổ 1 quả thủy lôi. Qua thử nghiệm xác định, tàu phóng từ V412 là phương tiện phóng từ mạnh có thể phá nổ thủy lôi ở cự li trước mũi tàu 100m, chính ngang mạn tàu 75 m và hiện đại hơn hẳn các thiết bị mà Mỹ sử dụng để rà phá thủy lôi ở sông biển miền Bắc năm 1973. Từ thành công đó ta tiếp tục cải tiến thêm nhiều tàu nữa thành phương tiện rà phá thủy lôi để cung cấp cho lực lượng chống phong tỏa.

Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại và phong tỏa lần thứ nhất, Xưởng 46 vừa nghiên cứu thiết kế và sản xuất được 9 thiết bị gồm 1 HDL-9, 4 HT-5, 4HT-6. Cuối năm 1968, đồng chí Nguyễn Trọng Bích còn cung cấp thiết kế, hướng dẫn Nhà máy đóng tàu Bạch Đằng đóng HDL-9 cho Quân khu 3.   

Trong lúc chúng ta chưa có thiết bị chuyên dung để rà phá thủy lôi thì những thiết bị này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, cùng với các phương tiện thô sơ của các lực lượng, chúng ta đã “bắt sống” được các tử thần trên sông biển miền Bắc, góp phần đánh thắng chiến tranh phong tỏa của địch.

TRỊNH VĂN DŨNG

Bài 1: Người mở khóa vào cửa tử

Bài 3: Quả thủy lôi cắm cát và câu hỏi của Bộ