(Bút ký)

(Tiếp theo và hết)
Khi chúng tôi đến đảo thì đã thấy một số tàu, thuyền của bà con ngư dân các tỉnh như: Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Quảng Nam đang neo đậu tại đây. Đại úy Nguyễn Xuân Triệu, Phó đảo trưởng có nước da màu đồng hun đón chúng tôi với nụ cười tươi rói. Anh ân cần hướng dẫn chúng tôi đi thăm các khu vực của đảo. Thực ra, diện tích phần nổi của đảo chìm chẳng lấy gì làm to tát. Thế nhưng qua sự giới thiệu của Đại úy Triệu, chúng tôi bỗng thấy đảo chìm như cả một thế giới kỳ lạ mà muốn tìm hiểu kỹ nó thì cần phải có nhiều ngày, tháng, chứ không thể chỉ như gió lướt mặt hồ như hoàn cảnh của chúng tôi. Trong câu chuyện của Triệu, tôi đặc biệt chú ý đến đàn chó của đảo Đá Tây. Khi chúng tôi đặt chân lên đảo, con nào, con ấy quẫy đuôi mừng rối rít, tựa hồ chúng đã quen chúng tôi từ lâu. Trước đây tôi nghe nói, chó của bộ đội ta nuôi trên các đảo rất thính, đêm đêm thường đi tuần tra quanh đảo, thấy vật lạ là xúm vào, sủa dồn. Con thì chặn trước, con lại dồn sau, mấy con khác thì tiến công trực diện, khiến cho đối phương không thể chạy thoát. Chiến thuật này chẳng khác gì “chiến thuật phục kích” của cánh lính trinh sát. Bây giờ, nhìn thấy những cái đuôi cứ quẫy rối lên, tôi băn khoăn hỏi Đại úy Triệu:

- Chó ở đảo thấy người lạ lại không sủa, thì liệu ban đêm có phát hiện được vật lạ không? Đại úy Triệu cười cười:

- Anh yên tâm, chúng biết các anh là người nhà đấy. Ban đêm anh nào mà lớ xớ thì coi chừng. Hôm trước, mấy anh bên thủy sản có việc sang đảo vào buổi tối cũng phải đánh tiếng từ xa đấy. Nhân tiện kể các anh nghe. Toàn đảo có hơn hai mươi con chó, trong đó có con đầu đàn tên là Bốc. Con này đặc biệt dũng cảm. Hằng đêm, khi nước triều xuống nó thường dẫn cả đàn “đi tuần” ra tận mép nước, cách đảo tới cả trăm mét. Đặc biệt con này còn biết chỉ huy cả đàn đi săn bạch tuộc đem về đảo. Khi nước xuống, những con bạch tuộc chạy không kịp, liền trốn vào các khe đá san hô, con Bốc dẫn đàn đi lùng sục khắp nơi, phát hiện ra con bạch tuộc nào, nó liền cào cát xung quanh viên đá, lôi bằng được con bạch tuộc ra ngoài và tha về đảo.

Có đêm đàn chó bắt được cả yến bạch tuộc. Năm ngoái, có một đợt bên đảo cạn nước ngọt, chúng tôi phải lấy nước từ khu dịch vụ nuôi trồng thủy sản về dùng. Từ bên này sang bên ấy, cơ động cũng phải mất vài trăm mét. Kể ra thì đi xuồng sang lấy cũng được, nhưng ngày nào cũng đi lại như thế thì rất tốn xăng dầu. Chúng tôi phát hiện ra con Bốc vẫn thường bơi sang bên khu dịch vụ để “chơi”, nên đã nghĩ cách dạy nó đưa nước về bên này. Thế là chúng tôi kiếm một cái can hai mươi lít, buộc vào cổ nó vào bảo bơi sang bên khu dịch vụ. Anh em bên ấy liền đổ nước vào can và lại giao cho nó kéo về. Cứ thế mỗi ngày nó qua lại bốn chuyến, chuyển được khoảng bảy chục lít nước ngọt. Hình như nó cũng hiểu cái khó khăn của chúng tôi, nên rất “chăm chỉ” làm việc. Ngay hôm đầu chuyển nước, con Bốc đã được gọi là “chiến sĩ” vận tải số 1 của đảo. Mấy ngày sau, một số con khác cũng theo sang và bây giờ, mấy con chó đã trở thành lực lượng vận tải chính giữa hai bên.

- Này mình hỏi thật, ở cái đảo chỉ bé bằng… bàn tay thế này thì có buồn không?

- Nói thật với anh, thậm chí chúng tôi còn không có thời gian để mà buồn nữa. Tuy ở đảo chìm, nhưng chúng tôi vẫn thực hiện các chế độ như ở trong đất liền. Chỉ có những đêm biển động, sóng ào ạt táp vào thềm san hô, khiến anh em không thể nào ngủ được thì khi ấy hình ảnh của đất liền lại hiện về. Còn những ngày bình thường, chúng tôi chỉ gặp người thân… ở trong mơ...

Tiếng chim báo hiệu bình minh

Mặt trời ửng lên trên đầu những ngọn sóng thì cũng là lúc điệp khúc “Toàn tàu báo thức! Báo thức toàn tàu!” lại vang lên. Ai nấy lại nhao cả ra mạn tàu để ngắm nhìn biển. Lạ thật, đã cả mười ngày lênh đênh trên biển, ngày nào cũng ngắm mặt trời lên mà mọi người vẫn không thấy chán. Kia rồi, từ phía trùng khơi hiện lên một chấm đen, hệt như một quân cờ ai đó để quên trên mặt đại dương. Nhà văn Đỗ Hoàng chạy tất tả trên mạn tàu để tìm được góc nhìn tốt nhất vào cái chấm đen ấy. Có lẽ do mắt đã kém, nên mặc dù đang nhìn chăm chắm vào cái chấm đen trên mặt biển, anh vẫn luôn mồm hỏi “Đâu, Thuyền Chài đâu?”. Cho đến lúc tàu chỉ còn cách đảo ước chừng một hải lý thì anh mới à lên: “Ồ hóa ra nó cũng lớn gớm nhỉ. Trông cứ như lâu đài trên biển…”.

Mới chân ướt, chân ráo lên đảo chúng tôi đã sục ngay vào ngôi nhà phụ, vốn chỉ là nơi tăng gia sản xuất của cánh lính đảo. Đây là một ngôi nhà cũng bê tông cốt thép, nhưng được làm từ thập niên 1980 nên đã bị hơi muối làm cho “lão hóa”. Với kinh nghiệm tích cóp được từ những lần lên các hòn đảo trước, chúng tôi biết, mọi “bí mật” của lính đảo mà cánh nhà báo cần, lại thường được cất giữ trong những nơi tưởng như không ai để ý đến. Quả nhiên, vừa bước chân vào cửa, tôi đã nghe thánh thót tiếng gù của chim gáy. Lạ chưa, giữa trùng khơi mênh mông sóng nước mà lại có tiếng chim gáy, hệt như trong đất liền mỗi ban mai thức dậy thì quả là điều kỳ diệu. Tôi tiến sâu vào ngôi nhà. À! Đây rồi. Một chiếc lồng chim xinh xắn quây vải kín xung quanh, treo lơ lửng trong góc nhà. Lật mảnh vải đỏ ra, hai chú chim gáy nghiêng đầu, nhìn chằm chằm vào chúng tôi như xác định xem đây là người quen hay lạ. Đang loay hoay với chiếc lồng chim thì một bóng áo xanh bước vào. Có lẽ nhận ra chủ, nên hai chú cu gáy nhảy rối rít trong lồng, lát sau dừng lại đồng thanh “Cúc cù… cù. Cúc cù… cù” liên tục.

Trung sĩ Nguyễn Khắc Danh, chủ nhân của đôi chim kể lại: “Em quê ở Nghệ An vốn mê chim từ nhỏ, nên đi đâu cũng để ý xem có giống chim nào lạ. Khi còn ở trong bờ, một lần trên đường đi cắm bia tập bắn, em phát hiện ra một tổ cu gáy trên cây phi lao già. Chờ cho hai quả trứng nở, em liền bứng về và nuôi bộ. Hai con chim chưa kịp mọc lông cánh thì em nhận nhiệm vụ ra đảo. Em quyết tâm xách lồng cu gáy xuống tàu mà trong bụng không dám tin là nó sẽ sống được trong những ngày hành trình ra đảo. Những ngày cuối năm, ra Trường Sa, gió đông bắc không lúc nào ngớt, sóng lúc nào cũng chỉ trực chồm lên tàu. Hai con chim nhất định không ăn thứ gì làm em lo quá. Mãi sau này mới hiểu, thì ra các cu cậu cũng bị say sóng. Gần một tuần sau chúng em mới lên đến đảo Thuyền Chài. Nhìn đôi chim em xót quá. Việc đầu tiên là em xin phép đảo trưởng đi chăm sóc hai con chim. Vốn cũng là người mê chim, nên đảo trưởng đồng ý ngay. Thực ra không phải chỉ riêng em mà gần như cả đảo đổ dồn vào đôi chim. Chúng cũng đã không phụ lòng chúng em, chỉ vài tháng sau là đã cất tiếng hót vang cả đảo. Đến bây giờ, đôi chim đã thực sự như một thành viên trên đảo. Và cũng rất lạ, chỉ sau một thời gian ở đảo, đôi chim đã ăn được nhiều thứ lạ, thậm chí cả đồ hộp chúng cũng xơi được mà giọng hót vẫn cứ trong trẻo. Hằng ngày, chúng bay lượn quanh nhà, tối lại về chui tọt vào lồng, chẳng phải trông giữ gì cả. Bây giờ mỗi sáng bình minh, cả đảo lại háo hức chờ tiếng cu gáy, nó đã thực sự như một món gia vị không thể thiếu trong cuộc sống của những người lính đảo chìm… ”. Câu chuyện của trung sĩ Danh làm tôi ngộ được một điều, hình như ở Trường Sa, các loài vật đều biết cách để thích nghi với những khó khăn, gian khổ, khắc nghiệt, điều mà ở đất liền, chưa chắc chúng đã làm được.

Tàu của chúng tôi còn đi tiếp chặng hành trình qua những Tốc Tan, Phan Vinh, An Bang… với bao câu chuyện lạ của cánh lính đảo. Xâu chuỗi những câu chuyện lại, tôi đã nhận ra, cùng với sự cố gắng của đất liền, người lính đảo cũng đang tự tìm cách làm cho đảo ngày càng gần đất liền hơn. Để một bóng cây, một ngọn cỏ, một tiếng chim hiển hiện trong mỗi bình minh ở Trường Sa, những người lính trên quần đảo đã đổ không biết bao nhiêu mồ hôi, công sức. Sự nỗ lực của họ chính là để cho cuộc sống trên đảo ngày càng phong phú hơn, có hương vị hơn và đảo sẽ ngày càng vững vàng hơn. Một ngày nào đó, Trường Sa sẽ trở thành “Hòn ngọc giữa đại dương” như nhiều người từng mơ ước. Nhưng với riêng tôi, từ trước đến nay vẫn coi Trường Sa là một quần đảo thép, mỗi con người trên đảo là một phần của khối thép đó. Cho dù sóng vùi, bão dập quanh năm, suốt tháng thì quần đảo vẫn cứ sừng sững giữa trùng khơi.

TRẦN ANH TUẤN